Hoàn thiện hệ thống thông tin quản lý hoạt động logistics tại Hà Nội

27/03/2019, 09:45

TCDN -
Hà Nội giữ vai trò hạt nhân trung tâm, đầu tàu của khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc và cả nước nhưng chưa hình thành trung tâm logistics. Hạ tầng thông tin và truyền thông còn thiếu nhiều ứng dụng chuyên ngành, nhất là cho logistics.




Một số nội dung hệ thống thông tin quản lý hoạt động logistics

Thông tin trong quản trị logistics là chất kết dính các hoạt động logistics trong các nỗ lực hợp nhất của nhà quản trị. Thông tin logistics cung cấp cơ sở cho các quyết định lập kế hoạch, thực thi và kiểm tra logistics hiệu quả. Nếu không quản lý tốt thông tin, các nhà quản trị logistics không thể biết được khách hàng muốn gì, cần dự trữ bao nhiêu, khi nào cần sản xuất và vận chuyển…

Hệ thống thông tin Logistics (LIS) được hiểu là một cấu trúc tương tác giữa con người, thiết bị, các phương pháp và quy trình nhằm cung cấp các thông tin thích hợp cho các nhà quản trị logistics với mục tiêu lập kế hoạch, thực thi và kiểm soát logistics hiệu quả.

LIS giúp nắm vững thông tin về biến động của nhu cầu, thị trường và nguồn cung ứng, giúp cho các nhà quản trị chủ động được kế hoạch mua hàng, giao hàng, dự trữ, thuê dịch vụ vận tải… một cách hợp lí thoả mãn yêu cầu của khách hàng với mức chi phí thấp nhất. LIS góp phần đảm bảo việc sử dụng linh hoạt các nguồn lực logistics, xây dựng chương trình logistics hiệu quả, chỉ rõ thời gian, không gian và phương pháp vận hành các chu kỳ hoạt động trong logistics. Tại các doanh nghiệp phát triển, mô hình cấu trúc của LIS được chuyên môn hóa theo một số hoạt động chủ đạo.



Hình cho thấy mối quan hệ trong hệ thống thông tin logistics bao gồm các yếu tố về môi trường Logictisc, quá trình ra quyết định Logictisc, 4 hệ thống con chủ yếu cấu tạo nên hệ thống thông tin Logictisc là hệ thống hoạch định, hệ thống thực thi, hệ thống nghiên cứu và thu thập tin tức, hệ thống báo cáo kết quả. Các hệ thống đó sẽ phối hợp cung cấp cho nhà quản lý logistics những thông tin chính xác và kịp thời để lên kế hoạch, thực thi và điều chỉnh các hoạt động logistics của doanh nghiệp.

Hệ thống lập kế hoạch: Bao gồm một loạt các kỹ thuật liên quan đến việc thiết kế các kế hoạch tầm chiến lược như thiết kế mạng lưới, lập kế hoạch và dự đoán nhu cầu, phối hợp các nguồn lực, kế hoạch hóa cung ứng, sắp xếp và lên kế hoạch sản xuất, kế hoạch phân phối, các kế hoạch tầm chiến thuật như quản trị dự trữ, vận tải, và các tác nghiệp như nghiệp vụ kho, quá trình đặt hàng và các sự kiện xảy ra hàng ngày

Hệ thống thực thi: Hệ thống thực thi logistics bao gồm các kỹ thuật đảm nhiệm các chức năng triển khai logistics trong thời gian ngắn hoặc hàng ngày về quản lý nhà kho, vận tải, mua sắm, dự trữ, quản lý hiệu quả các đơn hàng của khách.

Hệ thống nghiên cứu và thu thập thông tin: Để thích nghi với các nhân tố môi trường vĩ mô, môi trường kênh và nguồn lực bên trong công ty. Hệ thống nghiên cứu và thu thập thông tin có vai trò quan sát môi trường, thu thập thông tin bên ngoài, thông tin có sẵn trong lĩnh vực logistics và trong nội bộ công ty

Hệ thống báo cáo kết quả: Hệ thống báo cáo là thành phần cuối cùng trong LIS. Nếu các báo cáo và kết quả không được truyền đạt hiệu quả thì các tư tưởng, nghiên cứu hữu ích và giải pháp quản lý sẽ không thể đạt được. Các báo cáo hỗ trợ quyết định quản trị logistics tập trung vào 3 loại:

Báo cáo để lập kế hoạch gồm các thông tin có tính lịch sử và thông tin trong tương lai như thông tin về xu hướng bán hàng, khuynh hướng dự báo, các thông tin thị trường, các yếu tố chi phí của dự án kinh doanh.

Báo cáo hoạt động cung cấp những thông tin sẵn có cho nhà quản lý và người giám sát về hoạt động thực tế như việc nắm giữ hàng tồn kho, thu mua, đơn hàng vận tải, kế hoạch sản xuất và kiểm soát, vận chuyển.

Báo cáo kiểm soát cụ thể tổng kết chi phi và thông tin họat động ở các giai đoạn thịch hợp, so sánh ngân sách và chi phí hiện tại, chúng tạo ra nền tảng cho việc tiếp cận chiến lược họat động và các sách lược.

Hệ thống thông tin quản lý hoạt động logistics tại Hà Nội và giải pháp hoàn thiện

Theo thống kê của Cục Quản lý kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hiện Hà Nội có khoảng 25.000 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh trong lĩnh vực logistics; nhưng thực tế chỉ có hơn 5.400 doanh nghiệp hoạt động chính thức, 80% trong số đó là doanh nghiệp tư nhân nên hạn chế về vốn, nhân lực và công nghệ. Hơn nữa, doanh nghiệp logistics chỉ đóng vai trò là nhà cung cấp dịch vụ vệ tinh đơn giản như: Làm thủ tục hải quan; cho thuê phương tiện vận tải, kho bãi... thiếu hẳn những loại hình có thể cung cấp giá trị gia tăng cho chính doanh nghiệp.

Thực tế cho thấy mặc dù giữ vai trò hạt nhân trung tâm, đầu tàu của khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc và cả nước nhưng Hà Nội chưa hình thành trung tâm logistics. Đơn cử, với các kho bãi tập kết hàng, hầu hết đều có quy mô đầu tư đơn giản, thiếu liên kết. Ngoài các kho bãi thường, trên địa bàn Hà Nội đang duy trì hệ thống kho, bãi container phục vụ hàng hóa xuất, nhập khẩu tại 2 cảng thông quan nội địa là Mỹ Đình và Gia Lâm, tuy nhiên phạm vi khai thác còn hạn chế, chủ yếu chỉ cung cấp dịch vụ vận tải đường bộ, cho thuê bãi và một số dịch vụ liên quan. Hệ thống giao thông phục vụ các cảng này chỉ sử dụng đường bộ, chưa kết nối với đường sắt, đường thủy.

Đặc biệt, logistics Hà Nội cũng tồn tại những hạn chế chung của hệ thống hạ tầng thông tin và truyền thông Việt Nam. Cụ thể như: Khó khăn của việc ứng dụng các giải pháp tự động hóa trước hết là vốn đầu tư, khả năng quản lý vận hành, bảo trì sửa chữa - trình độ chuyên môn của nhân viên.

Trong lĩnh vực Giao thông vận tải, là lĩnh vực mà thông tin chuyên ngành logistics được quan tâm nhiều nhất, hiện nay, kiến trúc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) của Bộ còn chưa được hoàn thiện, tuy đã có định hướng cơ sở dữ liệu dùng chung, nhưng chưa được xây dựng; nguồn nhân lực CNTT chưa đồng đều; chưa xác định lộ trình triển khai và cơ chế huy động nguồn vốn phù hợp; bên cạnh đó chưa có kết nối liên thông các lĩnh vực giữa Bộ Giao thông vận tải với các ngành, địa phương khác và công tác đảm bảo an ninh an toàn cho các hệ thống chưa được coi trọng đúng mức. Thông tin liên kết giữa các nhà cung cấp dịch vụ cùng phương thức và giữa các phương thức vận tải chưa được thực hiện. Các ứng dụng tận dụng nguồn lực phương tiện mới bắt đầu gần đây với vận tải hành khách và một vài “sàn giao dịch vận tải” nhưng chưa giải quyết được những vấn đề thực tế phát sinh.

Trong lĩnh vực kho bãi, hệ thống phân phối: chưa có một hệ thống kết nối dịch vụ để cộng đồng logistics cũng như người sử dụng dịch vụ khai thác nhằm tối ưu hóa nguồn lực hạ tầng kho bãi, tồn trữ, phân phối. Rất nhiều kho hàng không có hệ thống quản lý dịch vụ kho hàng chuyên nghiệp, dịch vụ gia tăng giá trị, hỗ trợ quản lý điều hành theo mô hình 3PL.

Hệ thống thông tin hàng hóa xuất nhập khẩu quản lý bởi Tổng cục Hải quan được duy trì ổn định và đã tiến đến ứng dụng Hải quan điện tử - một cửa Quốc gia. Tuy vậy, nhu cầu kết nối với nhiều bên liên quan hơn và yêu cầu tăng cường các chức năng ứng dụng toàn diện cho hoạt động thương mại, giao nhận vận tải, thanh toán quốc tế như cách mà hệ thống Trade Exchange của Singapore thực hiện cách đây 19 năm vẫn còn là thách thức lớn với Việt Nam.

Hệ thống quản lý giao nhận (FMS), quản lý vận tải (TMS), quản lý kho hàng (WMS), quản lý nguồn lực (ERP) trong nội bộ các công ty chỉ được ứng dụng rời rạc tại các nhà cung cấp dịch vụ, ứng dụng điện toán đám mây cũng còn rất xa lạ với các công ty. Đa số công ty trong nước không đủ điều kiện về hệ thống thông tin đáp ứng yêu cầu dịch vụ của khách hàng quốc tế.

Số lượng nhà cung cấp giải pháp công nghệ thông tin logistics chuyên nghiệp trong nước ít, quy mô nhỏ, thực tế không có thương hiệu uy tín nào và tổng số hoạt động tích cực hay có giải pháp ứng dụng được là chưa tới 10 đơn vị. Các công ty khởi nghiệp đã có nhưng gặp nhiều khó khăn về vốn và nhân lực. Bản thân các công ty logistics khi tìm kiếm giải pháp ứng dụng cũng gặp nhiều trở ngại do năng lực cung cấp giải pháp và bảo đảm hỗ trợ kỹ thuật chưa chắc chắn.

Các hệ thống hỗ trợ dịch vụ hàng hóa hàng không như Vận đơn điện tử (e-Airway Bill), Mạng lưới dịch vụ hàng hóa (Cargo Community Network)… chưa phổ biến. Chưa có một trung tâm tự động hóa xử lý hàng hóa hàng không nào trong khi đó lượng hàng hóa CPN và qua đường hàng không tăng nhanh chóng mặt, tại một công ty dịch vụ trong nước, mức tăng trưởng được khẳng định không dưới 50%/năm.

Năm 2016, Hà Nội đã ban hành Đề án “Quản lý và phát triển hoạt động logistics trên địa bàn đến năm 2025”. Mục tiêu là phát triển Hà Nội thành một trong ba trung tâm logistics lớn của cả nước và khu vực, đạt trình độ quốc tế, đóng góp ngày càng nhiều vào GRDP, đáp ứng nhu cầu luân chuyển hàng hóa xuất, nhập khẩu, trung chuyển và nội địa.

Về cơ sở hạ tầng, Hà Nội sẽ xây dựng một trung tâm logistics hạng I (ở phía bắc) và một trung tâm logistics hạng II (ở phía nam), quy mô từ 20 đến 50 ha. Các trung tâm này kết nối các cảng cạn, cảng biển (như Hải Phòng, Hòn Gai, Cái Lân) và các cảng hàng không, bến xe, nhà ga, các khu công nghiệp... Đồng thời, xây dựng một trung tâm logistics chuyên dụng hàng không tại Cảng hàng không quốc tế Nội Bài hoặc có đường giao thông thuận tiện kết nối trực tiếp đến cảng hàng không.

Để hiện thực các mục tiêu, đồng thời hoàn thiện hệ thống thông tin quản lý hoạt động logistics, Hà Nội cần tập trung vào các giải pháp sau.

Thứ nhất, nhận thức được tầm quan trọng và bức thiết của vấn đề, quyết tâm nâng cao trình độ tiếp cận và sử dụng CNTT trong giới quản lý và nhân viên, đồng thời với việc vạch ra một lộ trình triển khai phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp nên dành một phần ngân sách để đầu tư vào CNTT nhằm ứng dụng hiệu quả những phần mềm mới cần thiết cho hoạt động. Các công ty logistics có thể hướng đến sự hợp tác với các công ty phần mềm để đặt hàng những ứng dụng chuyên biệt với công ty, qua đó có thể tận dụng tối đa hiệu quả của từng ứng dụng. Đồng thời, doanh nghiệp cần đội ngũ nhân lực có chuyên môn CNTT để áp dụng hiệu quả CNTT vào việc kinh doanh. Doanh nghiệp có thể kết hợp với các trung tâm đào tạo nguồn nhân lực hoặc các trường đại học để đào tạo đội ngũ cán bộ CNTT có kiến thức về logistics; Hoặc có thể sử dụng các khóa đào tạo tại chỗ theo yêu cầu của doanh nghiệp để nhân sự được huấn luyện theo đúng tính chất công việc của mình.

Thứ hai, để hỗ trợ, định hướng cho doanh nghiệp, các Bộ ngành, cơ quan quản lý nhà nước của thành phố Hà Nội cần xác định trách nhiệm liên quan trong việc nâng cao ứng dụng trình độ công nghệ thông tin trong phát triển ngành logistics. Chính phủ cần có những chính sách thu hút đầu tư gắn liền với tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nghiên cứu và chuyển giao các ứng dụng CNTT phù hợp thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp logistics, đặc biệt là các SME. Các cơ quan quản lý cần tạo điều kiện tuận lợi cho doanh nghiệp áp dụng CNTT vào dịch vụ logistics, bằng cách có những chính sách phát triển, hỗ trợ tài chính cho việc ứng dụng CNTT trong logistics. Như vậy doanh nghiệp mới có thể thực hiện những dự án lớn, áp dụng công nghệ hiện đại, công ty vừa và nhỏ cũng có thể áp dụng CNTT vào hoạt động của mình.

Thứ ba, cần có cơ chế, chính sách đặc thù phát triển nguồn nhân lực logistics nhằm đáp ứng yêu cầu tăng trưởng của thị trường logistics và cuộc cách mạng cộng nghiệp 4.0.

Các trường đại học, cao đẳng, khối đào tạo nghề cần có kế hoạch để thực hiện hiệu quả Quyết định số 200 QĐ/TTg, ngày 14/02/2017 về việc phê duyệt kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025.

Tăng cường đào tạo bồi dưỡng kiến thức về logistics cho đội ngũ quản lý nhà nước, quản lý doanh nghiệp trong các ngành, địa phương và vùng kinh tế. Đồng thời, tăng cường hợp tác với các tổ chức đào tạo nước ngoài tiến hành các dự án, khóa đào tạo logistics.
Giải pháp này cần lấy chất lượng làm mục tiêu, người học làm trung tâm và phải đáp ứng được thị trường lao động trong nước và quốc tế. Cần chú trọng đào tạo những kiến thức về quản trị hệ thống logistics, quản trị kinh doanh… hiện đại nhằm bảo đảm đào tạo nguồn nhân lực logistics chất lượng cao, thích nghi được với sự phân công lao động quốc tế và Cách mạng Công nghiệp 4.0.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Công Thương (2018), Báo cáo Logictics Việt Nam 2017 - Logictics: Từ kế hoạch đến hành động, Nxb. Công Thương, HN.
2. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, Hội thảo Nâng cao năng lực cạnh tranh ngành logistics: vấn đề và kiến nghị chính sách, tháng 10/2018, HN.
3. http://logistics.gov.vn/elogistics/phat-trien-ha-tang-he-thong-thong-tin-va-ung-dung-khcn-trong-logistics


ThS. Hoàng Thị Kim Oanh - Đại học kinh doanh và công nghệ Hà Nội - Tạp chí TCDN số 3/2019
 
Bạn đang đọc bài viết Hoàn thiện hệ thống thông tin quản lý hoạt động logistics tại Hà Nội tại chuyên mục Thị trường của Tạp chí Tài chính doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác:

email: [email protected], hotline: 086 508 6899

x