Nâng cao NSLĐ: Đổi mới tư duy, cải cách hành chính
TCDN - Nâng cao năng suất lao động của những ngành kinh tế mũi nhọn có nhiều lợi thế như nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản được xem là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế.
Theo báo cáo của Viện Nghiên cứu kinh tế và Chí́nh sách (VEPR), năm 2017, năng suất lao động của Việt Nam gấp 2 lần năng suất trung bình của nhóm nước thu nhập thấp, bằng hơn 50% nhóm các nước thu nhập trung bình thấp và bằng 18,3% nhóm các nước trung bình cao. Năng suất lao động bình quân của Việt Nam tăng từ 38,64 triệu đồng/ lao động năm 2006 lên mức 60,73 triệu đồng/lao động năm 2017.
PGS.TS Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng VEPR nhận định, năng suất lao động trong những năm gần đây đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối cao: Năm 2006 - 2012: Tăng trưởng 3,29%/năm; 2012 - 2017: Tăng trưởng 5,3%/ năm, trong đó năm 2015 đạt tăng trưởng cao nhất với tốc độ 6,49%/ năm. Tuy nhiên, so sánh với một số nước Đông Bắc Á và ASEAN, năng suất lao động của Việt Nam vẫn ở mức thấp. Năng suất lao động của Việt Nam thấp nhất khi so sánh với các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore, Thái Lan, Philippines, Malaysia và Campuchia. Năng suất lao động của Việt Nam xếp sau Campuchia ở 3 ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; xây dựng; vận tải kho bãi và truyền thông. Tuy nhiên, năng suất lao động của Việt Nam cao hơn nhiều quốc gia ở 3 nhóm ngành khai mỏ và khai khoáng; tài chí́nh bất động sản và dịch vụ văn phòng cũng như dịch vụ cộng đồng xã hội, cá nhân.
Trong giai đoạn từ 2008 - 2016, các ngành kinh tế vẫn duy trì năng suất lao động cao là khai khoáng, sản xuất điện và phân phối điện, khí́, hoạt động tài chí́nh ngân hàng và bảo hiểm, hoạt động chuyên môn khoa học và công nghệ, hoạt động kinh doanh bất động sản và cung cấp nước. Các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có năng suất lao động chưa cao, ngành nông lâm thủy sản vẫn nằm trong số các ngành có mức năng suất lao động thấp nhất nền kinh tế.
Đặc biệt, có dấu hiệu cho thấy tăng trưởng năng suất lao động của Việt Nam đã và đang chuyển dần từ phụ thuộc vào cường độ vốn sang năng suất các nhân tố tổng hợp bao gồm cả lao động và vốn (TFP - là chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất mang lại do nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và lao động, nhờ vào tác động của các nhân tố đổi mới công nghệ, hợp lý hóa sản xuất, cải tiến quản lý, nâng cao trình độ lao động…). Thực tế, trong giai đoạn 2008 - 2016, năng suất lao động tăng trưởng thêm 0,225 lần (22,5%). Hiệu ứng nội ngành và hiệu ứng dịch chuyển làm tăng năng suất lao động, trong khi hiệu ứng tương tác làm giảm tăng trưởng năng suất lao động. Như vậy, nếu Việt Nam có thể mở rộng thị trường quốc tế nhanh hơn nữa đối với các ngành có năng suất lao động cao sẽ giảm nhẹ được hiệu ứng làm giảm tăng trưởng năng suất lao động. Hiệu ứng nội ngành dần vượt qua hiệu ứng dịch chuyển để dẫn dắt năng suất lao động của Việt Nam là xu hướng tí́ch cực và cần được duy trì.
Ông Peter Girke, Trưởng Đại diện Viện KAS tại Việt Nam cho biết, nền kinh tế của Việt Nam đã phát triển một cách liên tục và đạt được những thành tựu lớn. Nhưng vấn đề năng suất lao động chưa có sự tăng trưởng tương xứng, so với nhiều quốc gia trong khu vực, Việt Nam đang có vấn đề về năng suất lao động. Hiện tăng trưởng năng suất lao động Việt Nam vẫn ở dưới mức cần thiết để đạt mục tiêu tăng trưởng nhanh và bền vững. Do đó, vấn đề tăng năng suất lao động cần trở thành mối quan tâm đặc biệt của Chí́nh phủ trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu như hiện nay. Bởi, chỉ bằng cách nâng cao năng suất lao động, Việt Nam có thể vượt qua bẫy thu nhập trung bình, cơ cấu lại các ngành công nghiệp và tham gia sâu hơn vào các chuỗi giá trị toàn cầu.
TS. Nguyễn Văn Hùng, Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng, nếu xét theo các thành phần kinh tế, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) giữ vai trò quan trọng, đóng góp vào tăng trưởng năng suất lao động của Việt Nam. Trong giai đoạn 2006 - 2016, mặc dù chỉ chiếm 4% lực lượng lao động, song đóng góp vào tăng trưởng năng suất lao động bình quân hàng năm của khu vực FDI đứng thứ hai (chiếm 29,3%), sau khu vực kinh tế ngoài nhà nước.
Tuy nhiên, phần lớn là do lao động dịch chuyển từ khu vực nội địa năng suất lao động thấp (nông, lâm nghiệp, thủy sản) sang khu vực FDI với năng suất lao động tuyệt đối cao hơn (phần đóng góp này chiếm 64%). Trong khi đó, đóng góp từ tăng trưởng năng suất lao động của chí́nh khu vực FDI (đã trừ phần đóng góp từ dịch chuyển lao động) chiếm tỷ lệ nhỏ hơn, chỉ chiếm 36%.
Hơn nữa, mức độ liên kết giữa khu vực FDI và khu vực nội địa hầu hết đều thấp ở tất cả ngành, đặc biệt nhóm ngành công nghệ và kỹ năng cao. Điều đó cho thấy, khả năng tác động gián tiếp vào năng suất lao động của khu vực FDI thông qua công nghệ và kỹ năng lao động thấp.
Nâng cao năng suất của ngành kinh tế mũi nhọn
Đại diện VEPR cho rằng, muốn phát triển nền kinh tế, nhất thiết phải nâng cao năng suất lao động của những ngành kinh tế mũi nhọn có nhiều lợi thế để phát triển như nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản. Theo đó, cần có những cải cách thể chế, hành chí́nh tạo điều kiện cho năng suất lao động tăng.
Đồng thời, Việt Nam cần xây dựng phong trào tăng năng suất lao động giống như Nhật Bản, Singapore và Hàn Quốc từng thực hiện trong giai đoạn trước đây. Không chỉ coi năng suất là vấn đề trong doanh nghiệp, khu vực cơ quan nhà nước và người dân cần đổi mới tư duy, lối sinh hoạt theo hướng tí́ch cực, từ đó năng suất làm việc sẽ được nâng lên.
Theo PGS.TS Nguyễn Đăng Minh, Phó Viện trưởng Viện Quản trị kinh doanh, có 2 yếu tố then chốt giúp thúc đẩy tăng năng suất lao động của doanh nghiệp, đó là yếu tố về công nghệ và quản trị doanh nghiệp. Theo đó, doanh nghiệp cần chú trọng dành nguồn lực đầu tư công nghệ, máy móc hiện đại. Cùng với đó, doanh nghiệp cần áp dụng hệ thống quản trị tinh gọn trong điều hành, quản lý doanh nghiệp để hướng tới tăng năng suất lao động và phát triển bền vững. Việc áp dụng tinh gọn trong quản trị sẽ góp phần loại bỏ lãng phí́ trong sản xuất cũng như tăng cường các sáng kiến cải tiến sản xuất. Đó phải là triết lý quản trị made in Việt Nam. Công nghệ có thể học nhưng quản trị phải tự xây dựng.
Đồng quan điểm trên, PGS.TS Hồ Đình Bảo, Trường Đại học Kinh tế quốc dân gợi ý, cần tí́nh toán lại năng suất lao động một cách chi tiết hơn trong nghiên cứu để đảm bảo tí́nh khách quan, khoa học cũng như chứng minh rõ nét hơn xu hướng tăng trưởng nội ngành có những đóng góp trong thực tế như thế nào tới tăng năng suất lao động. Bên cạnh đó, việc cổ phần hóa DNNN là chủ trương đúng đắn nhưng phải cân nhắc, thận trọng khi triển khai, đồng thời phải chỉ ra được chiến lược thu hút FDI trong thời gian tới để tận dụng và phát huy hiệu quả thực sự của hoạt động này đối với nền kinh tế trong nước nói chung và tăng năng suất lao động nói riêng.
Thu Hằng/ Tạp chí TCDN Tháng 11.2018
email: [email protected], hotline: 086 508 6899