Qúy I/2019: Tăng thu NSNN và nợ đọng thuế
TCDN - Chiều 18/4, Tổng cục Thuế đã tổ chức Hội nghị đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ Quý I và tiếp tục triển khai nhiệm vụ trọng tâm công tác quản lý thuế năm 2019. Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng tham dự và chỉ đạo tại Hội nghị.
Thu NSNN tăng trên 15%Báo cáo tóm tắt tình hình thực hiện nhiệm vụ Quý I, Phó Tổng cục trưởng Phi Vân Tuấn cho biết, nhiệm vụ thu NSNN năm 2019 Quốc hội, Chính phủ giao cho Bộ Tài chính là 1.411.300 tỷ đồng, trong đó nhiệm vụ thu giao cho cơ quan Thuế là 1.168.100 tỷ đồng (chiếm 82,8% tổng thu NSNN). Tron quý I/2019, tổng thu NSNN do cơ quan Thuế quản lý đạt 305.610 tỷ đồng, bằng 26,2% so với dự toán pháp lệnh, tăng 15,1% so với cùng kỳ năm 2018.
Trong đó: Thu từ dầu thô đạt 13.591 tỷ đồng, bằng 30,5% so với dự toán, bằng 94,8% so với cùng kỳ. Thu nội địa đạt 292.019 tỷ đồng, bằng 26% so với dự toán pháp lệnh, tăng 16,3% so với cùng kỳ. Nếu không kể khoản thu từ chênh lệch thu chi của NHNN (phần vượt dự toán 2018 chuyển sang quý I/2019) thì thu nội địa đạt 286.101 tỷ đồng, bằng 25,6% dự toán, tăng 13,9% so với cùng kỳ.
Theo đánh giá của Tổng cục Thuế, dù kết quả thu NSNN quý I/2019 đạt khá so với cùng kỳ nhiều năm qua, tuy nhiên, so với mục tiêu phấn đấu đã giao tại Quyết định số 238/QĐ-TCT của Tổng cục Thuế, thu NS quý I chỉ đạt 23,9%, một số khoản thu lớn và địa bàn trọng điểm thu còn chậm so với yêu cầu đề ra. Cụ thể: Một số khoản thu đạt tỷ lệ còn thấp như: Thuế BVMT đạt 18,4%; thuế sử dụng đất phi nông nghiệp đạt 13,2%; tiền thuê mặt đất, mặt nước đạt 21,4%; thu cổ tức và lợi nhuận được chia đạt 13,9%; một số tỉnh, thành phố tỷ lệ thu so với dự toán pháp lệnh chưa cao như: Đồng Nai đạt 21,3% dự toán pháp lệnh, Lào Cai 21,2%, Phú Thọ 20,2%, Hà Giang 18,6%, Sơn La 17,6%; Tình hình nợ đọng thuế còn phức tạp, mặc dù trong quí I/2019 đã truy thu được 7.450 tỷ đồng, nhưng lại phát sinh các khoản nợ đọng mới.
Tiến độ thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra tại địa phương còn chậm, chưa đảm bảo tiến độ kế hoạch, chất lượng, hiệu quả các cuộc thanh tra, kiểm tra tại một số địa bàn chưa cao. Tính đến cuối quý I/2019 toàn quốc mới thực hiện đạt 9,28% kế hoạch thanh tra, kiểm tra theo Quyết định số 133/QĐ-TCT (thanh tra đạt 6,42%, kiểm tra đạt 9,54% so với kế hoạch).
Công tác chống thất thu đối với khu vực DN nhỏ và vừa, hộ, cá nhân kinh doanh tại một số địa bàn còn chưa được triển khai quyết liệt, chưa phối hợp tốt với các cơ quan trên địa bàn để xác định đúng doanh số, áp dụng mức thuế khoán đối với các hộ, cá nhân kinh doanh chưa phù hợp với thực tế, đặc biệt là đối với một số lĩnh vực như: cho thuê nhà, kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh nhà hàng, khách sạn, dịch vụ vận tải.
Đặc biệt, vấn đề nợ đọng thuế có xu hướng gia tăng. Theo báo cáo của Tổng cục Thuế, tính đến 31/3/2019 số nợ đọng là 82.972 tỷ đồng, chiếm 7,1% tổng số dự kiến thu nội địa năm 2019, tăng 8,7% (+6.644 tỷ đồng) so với thời điểm 31/12/2018; giảm 0,8% (-686 tỷ đồng) so với cùng kỳ năm 2018 (31/3/2018). Trong đó: Tiền thuế nợ có khả năng thu là 45.332 tỷ đồng, chiếm 54,6% tổng số tiền thuế nợ thuế và nợ không còn khả năng thu là 37.640 tỷ đồng, chiếm 45,4% tổng số tiền thuế nợ thuế.
Tình hình nợ đọng thuế trong quý I/2019 diễn biến phức tạp và đang có xu hướng tăng dần lên qua các tháng. Ngoài nguyên nhân do ý thức chấp hành pháp luật thuế của một bộ phận NNT chưa cao, chưa nộp đúng, đủ, kịp thời số phát sinh phải nộp vào NSNN theo quy định của pháp luật thì còn có nguyên nhân chủ quan do các đơn vị quản lý nợ chưa áp dụng triệt để các biện pháp đôn đốc cưỡng chế theo đúng quy định của Luật Quản lý thuế nên hiệu quả công tác thu nợ chưa cao.
Nợ đọng thuế tăng ở hầu hết các địa phương, ngoài nguyên nhân khách quan, tình trạng doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính, mất khả năng thanh toán, ngừng hoạt động, bỏ khỏi địa chỉ kinh doanh, tự giải thể, phá sản và một bộ phận người nộp thuế ý thức chấp hành pháp luật thuế chưa cao và số nợ thuế của nhiều năm trước tồn đọng kéo dài không thu hồi được, số tiền chậm nộp tính 0,03%/ngày tăng lên thì nguyên nhân chủ quan là do:
Các doanh nghiệp kê khai thuế tháng 12/2018, quý 4/2018 và quyết toán thuế năm 2018 phát sinh thuế phải nộp nhưng chưa nộp kịp thời, đúng hạn vào ngân sách nhà nước.
Qua kiểm toán quyết báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước năm 2017 tại các địa phương, Kiểm toán nhà nước kiến nghị ghi tăng thêm số nợ đọng tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản (3.440 tỷ) của các dự án vướng mắc giải phóng mặt bằng, chưa đi vào khai thác sử dụng, cơ quan thuế đã kiến nghị UBND địa phương, Bộ Tài nguyên môi trường thu hồi đất, thu hồi dự án và Cục Thuế các địa phương chưa tổng hợp vào tổng số nợ đọng.
Quyết liệt hơn, chuyên tâm hơn, minh bạch hơn để kết quả tốt hơn
Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng nhân mạnh, với tinh thần “Quyết liệt hơn, chuyên tâm hơn, minh bạch hơn để kết quả tốt hơn”, các quý còn lại của năm 2019, ngành Thuế cần tập trung triển khai thực hiện một số nội dung sau.
Thứ nhất, tiếp tục hoàn chỉnh chương trình pháp luật theo chương trình Bộ giao, trong đó đặc biệt chú ý đến 2 dự án quan trọng đó là Luật Quản lý thuế (dự kiến được QH thông qua tại kỳ họp tháng 5/2019); Đối với Nghị quyết về xử lý nợ đọng thuế không có khả năng thu hồi cần tiếp tục rà soát, hoàn thiện để trình Quốc hội xem xét cho ý kiến thông qua vào kỳ họp tháng 10/2019.
Rà soát lại công tác hiện đại hóa, cải cách hành chính, sự phối hợp với các bộ ngành, địa phương trong giải quyết thủ tục hành chính. Trước khi có giải pháp căn cơ, đồng bộ, các địa phương cần chủ động thực hiện và Tổng cục Thuế cần có sự hậu thuẫn kịp thời.
Thứ hai, tiếp tục có sự phối hợp chặt chẽ, tăng cường báo cáo thường xuyên với các cấp ủy, chính quyền địa phương để hoàn thành nhiệm vụ thu NSNN trên địa bàn. Thực tế cho thấy những địa phương nào có sự gắn kết chặt chẽ giữa cơ quan thuế và chính quyền địa phương sẽ giúp công tác thu NSNN được thuận lợi hơn.
Thứ ba, đối với công tác đôn đốc thu hồi nợ đọng thuế, Bộ đã ban hành Chỉ thị 04, yêu cầu ngành Thuế tiếp tục thực hiện và triển khai ngay từ ngày đầu tháng đầu. Công tác thanh kiểm tra cũng cần được quyết liệt triển khai để tăng thu cho NSNN.
Thứ tư, đẩy mạnh kiểm tra giám sát kê khai của NNT, quản lý, giám sát chặt chẽ công tác hoàn thuế đảm bảo nhanh, tạo điều kiện cho DN, người dân thực hiện sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên “nhanh nhưng cần thận trọng” Có kế hoạch cụ thể kiểm tra đối với những DN có rủi ro cao về thuế và kiên quyết xử lý đối với những vụ việc sai phạm.
Thứ năm, đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền. Đây thực sự là một công đoạn quan trọng của công tác quản lý thuế. Chính sách thuế lớn, khối lượng công việc lớn. Do đó cần có chương trình tuyên truyền một cách căn cơ, cụ thể. “Làm cách nào cho NNT hiểu được chính sách thuế để chủ động nộp đúng, nộp đủ”.
Thứ sáu, tiếp tục hoàn thiện đề án thu thuế điện tử đối với khu vực ngoài quốc doanh, nhất là các hộ kinh doanh. Triển khai đề án hóa đơn điện tử. Đề án kế toán thuế đối với doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ để thúc đẩy DN phát triển.
Thứ bảy, công tác tổ chức cán bộ, luân phiên luân chuyển cán bộ, sắp xếp bộ máy, sáp nhập Chi cục thuế thành Chi cục Thuế khu vực cần tiếp tục được quyết liệt triển.
Nguyễn Diệp - Tạp chí TCDN số 5/2019
email: [email protected], hotline: 086 508 6899
Tag:








