Bằng cấp ở nước ngoài không được công nhận: Việt Nam đang đi ngược quốc tế?
TCDN - Vụ việc LCDF - LJMU đặt ra câu hỏi lớn về cách Việt Nam tiếp cận giá trị bằng cấp quốc tế trong thời đại toàn cầu hóa giáo dục.
“Bằng quốc tế” - hợp pháp toàn cầu, mắc kẹt trong nước
40 sinh viên Việt Nam vừa hoàn thành chương trình cử nhân của Đại học Liverpool John Moores (LJMU - Anh) thông qua Trường cao đẳng nghề thiết kế và thời trang London Hà Nội (LCDF - Hà Nội) đang rơi vào tình cảnh “tiến thoái lưỡng nan”. Bằng được cấp bởi một trường đại học công lập uy tín, có kiểm định quốc tế, nhưng lại không được Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam công nhận vì thiếu… thủ tục liên kết đào tạo.
Theo phản hồi chính thức từ Bộ GD&ĐT, LCDF chưa được cấp phép đào tạo liên kết theo quy định tại Nghị định 86/2018/NĐ-CP. Việc sinh viên học toàn bộ chương trình tại Việt Nam, dù là học online từ trường mẹ ở Anh, vẫn bị xem là “đào tạo trái phép” nếu chưa được cơ quan chức năng cấp phép.
Điều này đồng nghĩa: văn bằng quốc tế có thể không được chấp nhận cho xét tuyển công chức, học lên cao học, hoặc các thủ tục hành chính liên quan đến trình độ học vấn.
Trước đó, trong bài viết “Bằng cấp nước ngoài: Không được công nhận, có vô giá trị?”, tác giả khẳng định: việc không được công nhận hành chính không làm mất đi giá trị thực của văn bằng quốc tế.

Thỏa thuận Washington Accord / Seoul Accord / Sydney Accord: Các hiệp định này là cơ chế công nhận rộng rãi bằng cấp kỹ thuật & kỹ sư giữa nhiều quốc gia, thể hiện rằng bằng cấp do trường được đánh giá chất lượng tại nước ngoài được chấp nhận bởi nhiều thị trường và cộng đồng học thuật quốc tế.
Thực tế, hàng nghìn du học sinh tốt nghiệp ở Anh, Úc, Canada vẫn sử dụng bằng quốc tế để làm việc trong doanh nghiệp FDI hoặc tập đoàn đa quốc gia mà không cần đến công nhận từ VN-NARIC.
Vấn đề nằm ở chỗ: nhiều người học trong nước chưa hiểu rõ ranh giới giữa “công nhận pháp lý” và “giá trị học thuật”, dẫn tới kỳ vọng sai lệch, dễ bị tổn thương khi xảy ra xung đột pháp lý.
Trong khi Việt Nam yêu cầu chương trình học tại chỗ phải có liên kết được cấp phép, thì tại Anh, Úc hay Canada - những trung tâm giáo dục hàng đầu thế giới - việc công nhận văn bằng chỉ dựa trên kiểm định học thuật và uy tín của cơ sở cấp bằng.

Chuyên gia giáo dục cho rằng: Việt Nam đang tiếp cận quá “hình thức”, coi trọng địa điểm và thủ tục, trong khi xu hướng thế giới đã chuyển sang đánh giá kết quả đầu ra và chất lượng kiểm định.
Người học chịu thiệt, ai chịu trách nhiệm?
Điều đáng lo không chỉ là rủi ro của một nhóm sinh viên, mà là bức tranh rộng lớn về hệ thống công nhận văn bằng đang “lạc nhịp” với thế giới.
Nhiều học viên như trong vụ LCDF - LJMU cho biết họ hoàn toàn không được cảnh báo trước về khả năng không được công nhận bằng. Trường giới thiệu chương trình là quốc tế, có bằng quốc tế, được chấp nhận toàn cầu - nhưng lại không giải thích rõ sự khác biệt về quy trình pháp lý tại Việt Nam.
Hậu quả là người học mất cơ hội nghề nghiệp, không được xét học tiếp, không thể tham gia khu vực công lập, và có thể bị coi là “vi phạm quy định đào tạo” dù hoàn toàn học đúng pháp luật quốc tế.
Dưới bài đăng thông cáo báo chí của LCDF, nhiều phụ huynh, cựu sinh viên và cán bộ từng làm việc tại trường đã lên tiếng bày tỏ quan điểm của mình:
Bạch Dương, phụ huynh một cựu sinh viên LCDF: “Ủa sao con mình cũng học trường này, chưa ra trường đã có công ty tuyển dụng, lương cao. Mình không hiểu các bạn ý xin vào chỗ nào mà không được nhận, việc không được công nhận có phải do bằng cấp không?”
Dương Nguyễn, cựu sinh viên LCDF, nhà sáng lập thương hiệu thời trang Maki: “Thời gian học ở trường luôn là thời gian ý nghĩa và tuyệt vời nhất của em. Em mong trường sẽ tiếp tục đào tạo và ươm mầm các thế hệ học sinh mới.”
Chu Thúy Hằng, cựu cán bộ truyền thông LCDF: “Mình từng làm việc với trường và sinh viên, có thể chia sẻ một cách khách quan. Các bạn học ở LCDF tuy chỉ 2-3 năm nhưng thực hành rất vất vả, được thực chiến và nhiều nhà thiết kế tên tuổi công nhận. Dù học chương trình quốc tế dễ bị vướng thủ tục trong nước, nhưng nếu đúng hướng thì học sinh vẫn có cơ hội phát triển lâu dài.”
Những ý kiến này cho thấy: trong khi hệ thống pháp lý hiện hành chưa theo kịp thực tiễn, thì giá trị thực tiễn của chương trình vẫn được thị trường lao động ghi nhận.
Chia sẻ với tác giả bài viết, bà Hà Thị Hằng, CEO LCDF nói :“Chúng tôi mong cơ quan quản lý có một cách tiếp cận linh hoạt và phân biệt rõ giữa học online/hybrid hợp pháp với đào tạo trái phép. Việc công nhận văn bằng nên dựa vào kiểm định chất lượng chứ không chỉ dựa trên hình thức tổ chức tại Việt Nam.”
Chuyên gia đề xuất Việt Nam nên nhanh chóng cập nhật hệ thống công nhận văn bằng theo hướng: Phân biệt rõ giữa học cá nhân (online, top-up, hybrid) và chương trình liên kết đào tạo có tổ chức; Tập trung vào tiêu chuẩn kiểm định chất lượng thay vì nơi học; Công bố công khai danh sách các cơ sở được chấp nhận văn bằng tự động, tương tự UK ENIC hay AQF; Minh bạch hóa vai trò của tổ chức trung gian - chỉ yêu cầu giấy phép nếu đơn vị có tham gia giảng dạy hoặc cấp tín chỉ.
Đặc biệt, Bộ GD&ĐT cần sớm ra mắt hệ thống tra cứu online về tình trạng công nhận văn bằng quốc tế để người học có thể kiểm tra trước khi đăng ký.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc giữ tư duy “giấy phép - hình thức - địa điểm” sẽ khiến Việt Nam tự trói mình trong cuộc chơi giáo dục xuyên biên giới. Những trường hợp như LCDF - LJMU là lời cảnh tỉnh rõ ràng: nếu không đổi mới cách tiếp cận, hệ thống công nhận văn bằng sẽ không còn là công cụ bảo vệ người học, mà trở thành rào cản phát triển nhân lực chất lượng cao.
Bằng cấp quốc tế không cần được công nhận để có giá trị. Nhưng chính sách quốc gia cần được điều chỉnh để người học không bị mắc kẹt giữa hai thế giới pháp lý, kết luận từ bài viết trên Sức khỏe & Đời Sống.
Bùi Đình Quế
Giảng viên bộ môn Marketing
Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông, PTIT HCM
email: [email protected], hotline: 086 508 6899
Tag:








