Bộ Tài chính kiến nghị giải pháp ngăn trục lợi đất đai sau cổ phần hóa
TCDN - Bộ Tài chính cho biết, có tình trạng sau khi cổ phần hóa, doanh nghiệp chuyển đổi mục đích sử dụng đất hoặc sử dụng đất để góp vốn liên doanh, liên kết sau đó chuyển nhượng vốn, dẫn đến thất thoát, lãng phí vốn, tài sản của nhà nước. Vì vậy cần cơ chế kiểm soát chặt đất đai sau cổ phần hóa.
Đề xuất 2 phương án kiểm soát đất đai sau cổ phần hóa
Bộ Tài chính đang lấy ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp về việc xây dựng Nghị định về cơ cấu lại vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp.
Liên quan đến nội dung giá trị quyền sử dụng đất khi cổ phần hóa doanh nghiệp, Bộ Tài chính cho hay, pháp luật cổ phần hóa hiện nay quy định trường hợp diện tích đất được để sử dụng vào mục đích xây dựng nhà để bán và xây dựng kết cấu hạ tầng để chuyển nhượng hoặc cho thuê theo phương án sử dụng đất của doanh nghiệp cổ phần hóa đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt phải xác định lại giá trị quyền sử dụng đất để tính vào giá trị doanh nghiệp;
Đối với các diện tích đất còn lại thì phải chuyển sang thuê đất trả tiền hằng năm và không tính tiền thuê đất vào giá trị doanh nghiệp. Quy định này đã thực hiện ổn định từ khi Nghị định số 126/2017/NĐ-CP có hiệu lực và không phát sinh vướng mắc, việc trả tiền thuê đất hằng năm đảm bảo sát với giá trị thị trường hơn trả tiền 1 lần cho toàn bộ thời gian thuê. Doanh nghiệp sau khi chuyển đổi thành công ty cổ phần thực hiện quản lý, sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai.

(Ảnh minh họa)
Tuy nhiên, theo Bộ Tài chính, Luật Đất đai (Điều 34) cho phép doanh nghiệp có hợp đồng thuê đất trả tiền 1 lần hoặc hằng năm hoặc đang sử dụng tài sản gắn với quyền sử dụng đất đều được chuyển mục đích sử dụng đất mà không phải thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất trong trường hợp đáp ứng các quy định theo quy định của pháp luật đất đai.
Bộ Tài chính lo ngại có thể phát sinh trường hợp sau khi cổ phần hóa, doanh nghiệp chuyển đổi mục đích sử dụng đất hoặc sử dụng đất để góp vốn liên doanh, liên kết sau đó chuyển nhượng vốn (như một số vụ việc thời gian qua). Các trường hợp này có thể dẫn đến thất thoát, lãng phí vốn, tài sản của nhà nước. Do đó, cần có giải pháp nhằm hạn chế các trường hợp này.
Xuất phát từ thực trạng trên, Bộ Tài chính trình Chính phủ 2 phương án.
Phương án 1, giải quyết triệt để, căn cơ thông qua việc báo cáo Quốc hội sửa đổi Luật Đất đai để có quy định cụ thể về chuyển mục đích sử dụng đất của các diện tích đất có nguồn gốc từ doanh nghiệp cổ phần hóa. Theo đó, pháp luật về cổ phần hóa sẽ tiếp tục giữ nguyên như hiện nay và không cần điều chỉnh nội dung liên quan đến quyền sử dụng đất.
Phương án 2, đồng thời sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai như phương án 1 nêu trên và bổ sung quy định xử lý đất đai khi cổ phần hóa tại Nghị định này trong thời gian chưa sửa đổi, bổ sung Luật đất đai, trong đó quy định cổ phần hóa không gắn với chuyển mục đích sử dụng đất của doanh nghiệp.
Cụ thể, đối với những diện tích đất được giao để sử dụng vào mục đích xây dựng nhà ở thương mại, nhà ở xã hội, kết cấu hạ tầng để chuyển nhượng hoặc cho thuê phải xác định lại giá trị quyền sử dụng đất để tính vào giá trị doanh nghiệp;
Đối với diện tích đất còn lại (sau khi loại trừ diện tích đất được giao), doanh nghiệp thực hiện hình thức thuê đất có thời hạn theo quy định của pháp luật về đất đai và trả tiền thuê đất hằng năm, trong đó tính bổ sung giá trị được tạo bởi quyền sử dụng đất thuê trả tiền hằng năm trong giá trị doanh nghiệp;
Cùng với đó, Bộ Tài chính đề nghị quy định rõ việc cổ phần hóa các doanh nghiệp không gắn với chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Doanh nghiệp sau khi chuyển đổi thành công ty cổ phần thực hiện quản lý và sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai và quy định sau: trường hợp sau khi chính thức chuyển thành công ty cổ phần, doanh nghiệp không có nhu cầu sử dụng đất theo phương án sử dụng đất sau khi cổ phần hóa, doanh nghiệp có trách nhiệm trả lại đất cho địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm rà soát, thu hồi, đấu giá quyền thuê đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai;
Trường hợp doanh nghiệp chuyển mục đích sử dụng đất phù hợp với ngành nghề kinh doanh chính của doanh nghiệp (đơn cử như doanh nghiệp kinh doanh bất động sản), doanh nghiệp thực hiện nộp các nghĩa vụ tài chính liên quan theo quy định của pháp luật về đất đai. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm xác định các nghĩa vụ tài chính doanh nghiệp phải nộp trên cơ sở diện tích đất chuyển đổi được xác định theo giá thị trường.
Bỏ quy định chủ sở hữu và địa phương phải phê duyệt phương án sử dụng đất
Cũng tại Dự thảo, Bộ Tài chính đề xuất bỏ quy định phương án sử dụng đất phải được cơ quan đại diện chủ sở hữu phê duyệt và lấy ý kiến UBND các tỉnh, thành phố về phương án sử dụng đất và giá đất đối với diện tích đất giao.
Theo đó, doanh nghiệp xây dựng phương án sử dụng các cơ sở nhà, đất của doanh nghiệp sau khi chuyển thành công ty cổ phần trên nguyên tắc không gắn với mục đích sử dụng đất và theo quy định của Luật đất đai và các văn bản hướng dẫn (tại điểm 2.a Chỉ thị số 47/CT-TTg ngày 24/12/2024 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường quản lý, nâng cao hiệu quả xử lý nhà, đất tại doanh nghiệp nhà nước, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) sửa đổi, bổ sung quy định hướng dẫn về nội dung phương án sử dụng đất, lập, phê duyệt phương án sử dụng đất khi cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước). Việc quản lý, sử dụng các cơ sở nhà đất thực hiện theo quy định tại Nghị định này và quy định của pháp luật về đất đai.
Bộ Tài chính cho rằng đề xuất trên nhằm đảm bảo tính thống nhất giữa các pháp luật.
Cụ thể, Quốc hội đã ban hành các Luật quy định cụ thể về chế độ quản lý, sử dụng đối với đất đai, tài nguyên, như: Luật Đất đai năm 2024 quy định về chế độ quản lý và sử dụng đất đai; Luật Tài nguyên nước năm 2023 quy định về quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên nước; Luật Lâm nghiệp năm 2017;....
Luật số 56/2024/QH15 sửa đổi, bổ sung 7 Luật đã quy định việc quản lý, sử dụng tài sản công tại doanh nghiệp được thực hiện theo các quy định có liên quan, không phải thực hiện sắp xếp lại theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công.
Bên cạnh đó, Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp quy định khi chuyển đổi loại hình doanh nghiệp, việc quản lý sử dụng đất của doanh nghiệp thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai. Tuy nhiên, pháp luật về cổ phần hóa hiện hành quy định phương án sử dụng đất phải căn cứ, phù hợp với pháp luật về sắp xếp lại, xử lý nhà đất. Do đó, việc bỏ quy định cơ quan đại diện chủ sở hữu phê duyệt phương án sử dụng đất và lấy ý kiến UBND cấp tỉnh đảm bảo nguyên tắc thống nhất với pháp luật về tài sản công và pháp luật về đất đai, cũng như Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Ngoài ra, đề xuất trên còn giảm được một quy trình trong quá trình cổ phần hóa, thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa. Để lập phương án sử dụng đất khi cổ phần hóa như hiện nay, cơ quan đại diện chủ sở hữu phải lấy ý kiến của UBND cấp tỉnh, thành phố nơi có quyền sử dụng đất, trên cơ sở đó phê duyệt phương án sử dụng đất. Thực tế thời gian qua, UBND cấp tỉnh rất lâu hoặc không có ý kiến phản hồi đối với phương án sử dụng đất do cơ quan đại diện chủ sở hữu lấy ý kiến, mặc dù pháp luật về CPH đã quy định không thực hiện đúng thời hạn là căn cứ để đánh giá xếp loại cán bộ, công chức. Tuy nhiên, vẫn không xử lý được việc UBND các tỉnh, thành phố phê duyệt không đúng thời hạn/không phê duyệt/không có ý kiến về phương án sử dụng đất, giá đất.
"Như vậy, việc lập phương án sử dụng đất phải lấy ý kiến của UBND cấp tỉnh, phê duyệt của cơ quan đại diện chủ sở hữu làm phát sinh thủ tục hành chính; hạn chế tính chủ động của doanh nghiệp trong việc quản lý, sử dụng nhà, đất của doanh nghiệp để phục vụ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; là nguyên nhân dẫn tới việc cổ phần hóa bị chậm và kéo dài quá trình cổ phần hóa", Bộ Tài chính nhấn mạnh.
Theo Bộ Tài chính, việc bỏ quy định phương án sử dụng đất khi cổ phần hóa phải được cơ quan đại diện chủ sở hữu phê duyệt và lấy ý kiến UBND các tỉnh, thành phố về phương án sử dụng đất sẽ tạo sự chủ động cho doanh nghiệp trong việc quản lý, sử dụng nhà, đất của doanh nghiệp để phục vụ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Trường hợp nhà nước cần thu hồi (kể cả khi đã chuyển thành công ty cổ phần) vẫn thực hiện theo pháp luật về đất đai như đối với các tổ chức, cá nhân khác.
Ngoài ra, đề xuất còn phù hợp với quy định bổ sung việc cổ phần hóa các doanh nghiệp không gắn với chuyển đổi mục đích sử dụng đất.
email: [email protected], hotline: 086 508 6899