Các vấn đề đương đại trong Kinh tế, Quản trị và Kinh doanh

03/12/2018, 05:37

TCDN -

Tương lai của nền kinh tế châu Á - cái nhìn dự đoán trong 50 năm tới; Nga trong Cộng đồng Kinh tế Á Âu (EAEU): Nghiên cứu về thúc đẩy phát triển giao thương sau hiệp định FTA đầu tiên với Việt Nam; Xác định giá trị tài nguyên nước và định giá nước ở ViệtNam… là tham luận của các chuyên gia tại Hội thảo quốc tế “Các vấn đề đương đại trong Kinh tế, Quản trị và Kinh doanh”.

Đây là hội thảo quốc tế lớn nhất do Trường Đại học Kinh tế Quốc dân tổ chức thường niên và năm 2018 là năm đầu tiên của chuỗi hội thảo này.

GS. Peter J.N. Sinclair, Khoa Kinh tế học, Đại học Birmingham, Vương quốc Anh

Với tham luận “Tương lai của nền kinh tế châu Á - cái nhìn dự đoán trong 50 năm tới”, GS. Peter J.N. Sinclair, Khoa Kinh tế học, Đại học Birmingham, Vương quốc Anh đã khái bức tranh kinh tế khu vực châu Á từ những năm 70 đến này. Cụ thể: Năm 1970, nền kinh tế Châu Á chiếm 15,2% giá trị năng thêm trên thế giới về đồng đô la và trao đổi tỷ giá. Đến năm 2016, con số này tăng lên 37,4%. Cùng với đó, 4 nền kinh tế (Trung Quốc, Ấn Độ, Nhât Bản và Việt Nam) chiếm 70% giá trị tăng thêm của châu Á.

Cùng với việc dự báo tương lai kinh tế của các nước lớn là Trung Quốc, Ấn Độ, Nhât Bản và Việt Nam, GS. Peter J.N. Sinclair đánh giá, lợi ích của việc bắt đầu công nghiệp hóa muộn là tài sản chính của Việt Nam. Nhóm độ tuổi từ 20 - 64 được dự tính là tăng cho tới đầu những năm 2040 và giảm dần sau đó. Sự tăng trưởng mạnh mẽ của Việt Nam kể từ cuối những năm 1990 được tiếp tục trong vài thập kỷ, vào những năm 2040.

Giá trị gia tăng thực của Việt Nam dường như tăng bình quân hàng năm khoảng 3 - 4,25% cho tới cuối những năm 2040, và giảm 3 - 4,25% cho tới những năm 2060. Sự bình ổn chính trị tương đối và khởi đầu muộn này của nền kinh tế có thể làm cho việc thích nghi nhanh chóng với GW dễ dàng hơn so với nhiều nước láng giềng.
Giáo sư cũng dự đoán những thách thức chung trước của các nước châu Á mắt bao gồm: dòng di cư từ nông thôn tới thành thị, thiên tai (hạn hán, hỏa hoạn, bão, lũ, ngập lụt), Khả năng thay đổi yếu tố giá.

GS. Zuev Vladimir - Giám đốc nghiên cứu, Trường Kinh tế cao cấp,
Đại học Nghiên cứu Quốc gia Nga

Chia sẻ về vai trò của Nga trong Cộng đồng Kinh tế Á Âu (EAEU), GS. Zuev Vladimir - Giám đốc nghiên cứu, Trường Kinh tế cao cấp, Đại học Nghiên cứu Quốc gia Nga đã trình tham luận “Nga trong Cộng đồng Kinh tế Á Âu (EAEU): Nghiên cứu về thúc đẩy phát triển giao thương sau hiệp định FTA đầu tiên với Việt Nam”.

Theo Giáo sư, quan điểm của Nga là thận trọng về tự do hóa thương mại. Hiện Nga gặp 4 vấn đề khó khăn trong liên kết thương mại quốc tế như (i) thái độ về tự do hóa và Nga cũng mất 18 năm để gia nhập WTO; (ii) quan điểm về liên kết khu vực; (iii) quan hệ thương mại giữa Châu Âu và Châu Á; (iv) vị trí của Nga trong các hiệp định thương mại tự do (FTA).

Ký kết FTA với Việt Nam là thay đổi quan trọng đối với chính sách thương mại quốc tế của Nga. Đây là bước quan trọng về tự do hóa thương mại; là sự thỏa thuận liên kết đầu tiên với EAEU và cũng là sự thỏa thuận đầu tiên giữa Nga với một quốc gia ngoài khu vực Xô Viết và khu vực châu Á.

FTA này có tầm quan trọng lớn đối với Nga,, cụ thể như: (i) giúp xác định các chính sách tự do thương mại của Nga; (ii) tác động đến quan hệ giữa Nga trong Cộng đồng kinh tế Á Âu (EAEU); (iii) ảnh hưởng đến đàm phán về FTA giữa Nga với các quốc gia khác. Hiện tại có 30 FTAs giữa Nga với các quốc gia khác đang được xem xét; (iv) minh chứng cho khả năng phát triển liên kết kinh tế với các quốc gia châu Á và (v) chỉ ra tiềm năng FTA để thúc đẩy thương mại với Việt Nam và có thể là các nước ASEAN thông qua Việt Nam.

TS. Chu Hoàng Long, Giảng viên cao cấp, Trường Chính sách công Crawford,
Đại học Quốc gia Úc

Nghiên cứu cụ thể về nền kinh tế Việt Nam, TS. Chu Hoàng Long, Giảng viên cao cấp, Trường Chính sách công Crawford, Đại học Quốc gia Úc nhận định, Việt Nam thuộc nhóm nước bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi biến đổi khí hậu và gần đây đã phải đối mặt với những đợt hạn hán thường xuyên, với mức độ trầm trọng ngày càng tăng. Ví dụ, theo báo cáo của FAO đợt hán hán năm 2016 đã tàn phá gần nửa triệu hecta cây trồng, ảnh hưởng tới hơn 50 tỉnh/thành trên cả nước, trong đó có 18 tỉnh ban bố tình trạng khẩn cấp về nước, và khoảng 2 triệu người lâm vào tình trạng thiếu nước, cần được hỗ trợ. Đây là những rủi ro đe dọa đến sự phát triển kinh tế và xã hội của một đất nước vốn nằm trong vùng nhiệt đới mưa nhiều, ít kinh nghiệm đối phó với tình trạng khan hiếm nước, đặc biệt trong hoàn cảnh nông nghiệp là ngành chủ chốt đảm bảo an ninh lương thực quốc gia lại phụ thuộc nhiều nhất vào tài nguyên nước.

Thông qua xây dựng một mô hình nhằm tính toán giá trị tài nguyên nước trong lĩnh vực thủy lợi được trình bày trong tham luận “Xác định giá trị tài nguyên nước và định giá nước ở ViệtNam”, TS. Chu Hoàng Long đã cho nhà hoạch định chính sách thấy, cần đánh giá cụ thể và đưa ra những biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nước.

Theo kết quả nghiên cứu, bình quân giá trị gia tăng của tài nguyên nước vào khoảng 12,280VND/m3 (giá năm 2016); nhưng có tới 16% số hộ được khảo sát sử dụng nước không hiệu quả, hay nói cách khác, những hộ này có thể giảm bớt lượng nước mà không hề bị ảnh hưởng tới kết quả sản xuất. Nghiên cứu đưa ra những con số thống kê cho thấy, các tổ chức xã hội, trình độ giáo dục và đặc biệt là khả năng sử dụng Internet để trao đổi chia sẻ thông tin, có vai trò quan trọng trong việc giải thích sự khác biệt về mức độ hiệu quả sử dụng nước giữa các nhóm hộ.

Đồng thời, nghiên cứu cũng đưa ra những bằng chứng cho thấy định giá nước là một hướng chính sách hữu hiệu để nâng cao hiệu quả sử dụng nước trong ngành nông nghiệp, vốn chiếm khoảng 90% tổng lượng nước sử dụng. Khi định giá nước, các hộ nông dân sẽ sử dụng nước có trách nhiệm hơn và sẽ loại bỏ những mục đích sử dụng nước không mang lại lợi ích đủ bù đắp mức giá phải trả. Cụ thể, xác định giá nước ở mức 2000 - 3000VND/m3 (ngoài chi phí bơm, hút, bảo hành kênh, mương, hồ, đập…) có thể làm giảm tới trên 80% lượng nước sử dụng, trong khi lợi nhuận của nông dân chỉ giảm 15%. Đương nhiên, điều quan trọng là phần thu của nhà nước cần được sử dụng để hỗ trợ những công nghệ sản xuất tiết kiệm nước và giúp những nông dân nghèo bị ảnh hưởng vượt qua khó khăn tạm thời.

Ngoài những tính toán mang tính học thuật và lý luận, nghiên cứu TS. Chu Hoàng Long đề xuất một số khuyến nghị chính sách dựa trên kinh nghiệm các nước và điều kiện thực tế ở Việt Nam. Cụ thể, việc định giá nước nên được thử nghiệm trước ở những vùng có thu nhập cao và đang chịu ảnh hưởng bởi trình trạng khan hiếm nước như một số vùng sản xuất hàng xuất khẩu của tỉnh Lâm Đồng. Vai trò của các tổ chức xã hội, của giáo dục đào tạo và của Internet trong việc nâng cao, chia sẻ kiến thức của nông dân cần được chú trọng.

Trong quá trình thực hiện cần lắng nghe và cân nhắc ý kiến từ nhiều phía, đặc biệt là từ các hộ nông dân, để đảm bảo thông tin đa chiều. Việc lắp đồng hồ nước đòi hỏi đầu tư ban đầu và có thể được hỗ trợ thông qua sự góp mặt của khu vực tư nhân.

Ngoài ra, Việt Nam có thể xây thêm cơ sở hạ tầng để tăng nguồn nước (hồ, đập), nhưng điều này cần tính toán cẩn trọng và tầm nhìn dài hạn, bởi kinh nghiệm quốc tế cho thấy nếu xảy ra sai lầm thì việc khắc phục sẽ rất khó khăn và tốn kém.

PV
Bạn đang đọc bài viết Các vấn đề đương đại trong Kinh tế, Quản trị và Kinh doanh tại chuyên mục Tin tức của Tạp chí Tài chính doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác:

email: [email protected], hotline: 086 508 6899

x