Dự báo kinh tế 2019: Duy trì tăng trưởng cao, đối diện rủi ro
TCDN -
Nếu tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô và thu hút đầu tư nước ngoài (FDI), đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế, thực hiện các Hiệp định Thương mại, tăng trưởng có thể đạt khoảng 6,9%.
Nếu tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô và thu hút đầu tư nước ngoài (FDI), đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế, thực hiện các Hiệp định Thương mại, tăng trưởng có thể đạt khoảng 6,9%.
2 kịch bản tăng trưởng
TS. Đặng Đức Anh, Trưởng ban Ban Phân tích và Dự báo, Trung tâm Thông tin và dự báo kinh tế - xã hội quốc gia (NCIF) nhận định, phát triển khu vực tư nhân; Cải cách thể chế và môi trường kinh doanh; Khoa học công nghệ và nâng cao năng suất lao động là động lực chính tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2019 - 2020.
Hiện các tổ chức quốc tế dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2019 - 2020, trung bình 6,5 - 6,6%, nhưng nếu tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, thu hút FDI, đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế, đặc biệt là khu vực nông nghiệp và thực hiện các Hiệp định Thương mại, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ đạt được trung bình 6,9% và nếu đẩy mạnh cải cách, nhất là khu vực nhà nước và đầu tư công, có thể tăng trưởng cao hơn trong thời gian tới.
Tuy nhiên, giai đoạn 2019 - 2020, Việt Nam đứng trước những rủi ro khi tăng trưởng kinh tế ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào khu vực FDI, điển hình là dựa vào một số mặt hàng chủ lực, một số doanh nghiệp lớn như Samsung, Formosa. Vì vậy, khi có các vụ kiện hoặc xung đột thương mại, tăng trưởng kinh tế sẽ ảnh hưởng lớn. Rủi ro hiện hữu tiếp theo đến từ áp lực trả nợ nước ngoài, trong 2 năm 2019 - 2020 có nhiều khoản nợ đến hạn.
Bên cạnh đó, tăng trưởng tín dụng và cung tiền đang ở mức cao và kéo dài tiềm ẩn rủi ro về nợ quốc gia, mất ổn định kinh tế vĩ mô. Tỷ lệ nợ công cao và nghĩa vụ trả nợ lớn cũng ảnh hưởng đến điều hành kinh tế vĩ mô cũng như khả năng giảm mặt bằng lãi suất. Chi thường xuyên tuy giảm nhưng tăng chi đầu tư phát triển không nhiều, ảnh hưởng đến đầu tư cho nền tảng hạ tầng để phát triển dài hạn.
Trong khi đó, thâm hụt thương mại của Mỹ tiếp tục tăng; dòng chảy FDI từ Trung Quốc không rõ ràng; Các Hiệp định Thương mại tự do song phương và đa phương cũng sẽ tác động đến nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.
Trên cơ sở đó, hai kịch bản có thể xảy ra đối với kinh tế Việt Nam năm 2019 và năm 2020. Cụ thể: năm 2018kịch bản thứ nhất, tăng trưởng kinh tế sẽ đạt mức 6,84% và kịch bản thứ 2 sẽ là 7,02%. Năm 2020 tình hình khả quan hơn với dự báo tăng trưởng kinh tế sẽ ở hai mức 7 và 7,2%.
Phân tích tác động của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung tới kinh tế Việt Nam, ông Trần Toàn Thắng, Trưởng ban Kinh tế thế giới (NCIF) cho biết, ở kịch bản Mỹ đánh thuế lên 200 tỷ USD hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc, dự báo sẽ làm giảm 0,10% GDP năm 2018, 0,33% năm 2019 và 0,40% năm 2020. Mức tác động này sẽ giảm dần và chấm dứt vào năm 2028. Đặc biệt, việc xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ sẽ giảm 0,13% năm 2018. Năm 2019 giảm 0,61% và tới 2020 giảm 0,89% và ảnh hưởng còn kéo dài tới năm 2032. Ở chiều nhập khẩu, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ năm 2018 giảm 0,09%, năm 2019 là 0,52% và 2020 là 0,87% trong khi đó năm 2022 lên tới 0,92%.
Với Hiệp định CPTPP, theo dự báo thực hiện hiệp định này sẽ tác động làm GDP tăng thêm 1,32% sau khi cắt giảm thuế quan và tăng 2,01% nếu cắt giảm thuế quan và tự do hóa dịch vụ. Tương ứng, xuất khẩu sẽ tăng thêm 4,04% và 4,74%, nhập khẩu tăng thêm 3,8% và 4,64%. GDP sẽ tăng thêm 1,7 tỷ USD, xuất khẩu tăng thêm 4,09 tỷ USD và nhập khẩu tăng thêm 4,93 tỷ USD.
Một số chuyên gia kinh tế cho rằng, căng thẳng thương mại Mỹ - Trung có thể khiến hàng hóa Trung Quốc tràn sang Việt Nam. Việc này sẽ có hai tác động lớn, một là hàng hóa Trung Quốc cạnh tranh với hàng hóa trong nước, hai là khiến doanh nghiệp Việt Nam mất động lực sáng tạo, bởi việc nhập khẩu hàng hóa, máy móc thiết bị của Trung Quốc sẽ rẻ hơn là đổi mới công nghệ. Đây là một trong những nguyên nhân khiến công nghiệp hỗ trợ trong nước không phát triển.
Bổ sung động lực
Theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, cần bổ sung thêm động lực cải cách nhà nước và động lực này phải đứng đầu tiên để có thể tác động tích cực đến các động lực khác. Nếu không thực hiện được, không thể phát triển khu vực tư nhân. Ví dụ, 5 năm thực hiện Nghị quyết 19 nhưng điều kiện kinh doanh vẫn khó khăn, cắt chỗ này gài chỗ khác. Hai năm tới, phải tập trung thực hiện mạnh Nghị quyết 35/NQ-CP về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020, vì đây là cam kết đầy đủ của Chính phủ, xóa bỏ xin - cho.
Để phát triển khu vực tư nhân, phải làm rõ khu vực tư nhân là ai, là doanh nghiệp FDI hay những doanh nghiệp tư nhân lớn trong nước, một số đại gia trong khu vực tư nhân, hưởng lợi nhiều từ chính sách tài chính, tín dụng, đất đai..., hay là đông đảo doanh nghiệp nhỏ và vừa, khu vực kinh tế phi chính thức? Xác định rõ khái niệm khu vực tư nhân để phát triển thành động lực tăng trưởng là cần thiết, không đánh đồng để tránh tình trạng chỉ có một vài đại gia hưởng lợi.
Ông Lưu Bích Hồ, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược Phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhấn mạnh, từ trước đến nay động lực từ khu vực FDI luôn được đề cao, tuy nhiên, với việc chiếm tới hơn 70% kim ngạch xuất khẩu, động lực này không có ý nghĩa nhiều bởi chưa củng cố được nội lực của nền kinh tế. Chính vì thế, nền tảng tăng trưởng sắp tới phải là kinh tế tư nhân và phải xác định rõ “cần thúc vào đâu để tư nhân mạnh lên nữa”. Công cuộc cải cách nền kinh tế cần mạnh mẽ hơn. Động lực cải cách là phải chấm dứt xin - cho, trên nóng dưới lạnh. Nếu không thay đổi được bộ máy, không làm cho chính sách đi vào cuộc sống, tăng trưởng kinh tế sẽ vẫn “xốp”, không chắc chắn, chỉ là tăng trưởng về số lượng, chưa thực sự chất lượng.
Thêm nữa, việc Trung Quốc dính đòn thương mại cần được phân tích đánh giá kỹ càng hơn, vì tăng trưởng kinh tế Việt Nam chứa đựng nhiều bóng dáng của quốc gia này. Do vậy, cần xây dựng thêm kịch bản cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam nếu có “biến” lớn xảy ra như sụt giảm xuất khẩu, bất ổn vĩ mô, khủng hoảng kinh tế toàn cầu...
email: [email protected], hotline: 086 508 6899