Giải pháp nào giúp doanh nghiệp giảm bớt rủi ro về Thuế

05/01/2023, 19:00

TCDN - Bộ Tài Chính trả lời về việc giải pháp nào giúp doanh nghiệp giảm bớt rủi ro về Thuế

Hỏi: Kính gửi Quý Cơ Quan, Công Ty chúng tôi có trụ sở tại KCN Sóng Thần 1 tỉnh Bình Dương, xin được giải đáp vướng mắc như sau: Từ ngày 01/7/2022, theo quy định Luật Quản lý thuế 2019 và Nghị định 123/2020/NĐ-CP cơ sở kinh doanh phải sử dụng hóa đơn điện tử;

Thế nhưng Công Ty chúng tôi gặp nhiều trường hợp người bán sau khi bán hàng và xuất hóa đơn GTGT giao cho Công Ty chúng tôi (bên mua), Công Ty chúng tôi đã thanh toán và kê khai thuế đầu vào, sau đó Công Ty chúng tôi phát hiện bên bán đơn phương tự hủy hóa đơn GTGT đã xuất mà không có biên bản thỏa thuận với Công Ty chúng tôi ( bên mua) hoặc có trường hợp bên bán đơn phương tự hủy hóa đơn đã giao cho bên mua và phát hành hóa đơn mới, Công Ty chúng tôi rất lo lắng khi hóa đơn mua hàng Công Ty chúng tôi đã thanh toán và kê khai khấu trừ thuế GTGT rồi thì làm sao giám sát được việc hủy hoăc điều chỉnh hoá đơn của bên bán.

Mong Bộ Tài chính và Tổng Cục Thuế hướng dẫn giúp Công Ty chúng tôi những trường hợp như vậy Bộ Tài chính có giải pháp nào giúp Doanh nghiệp không bị rũi ro về Thuế không?

Trả lời: 

Căn cứ nội dung câu hỏi, Cục Thuế tỉnh Bình Dương có ý kiến như sau:

   - Căn cứ Điều 47 Luật Quản lý Thuế số 38/2019/QH14 ngày 13 tháng 6 năm 2019 của Quốc Hội quy định về khai bổ sung hồ sơ khai thuế như sau:

“1. Người nộp thuế phát hiện hồ sơ khai thuế đã nộp cho cơ quan thuế có sai, sót thì được khai bổ sung hồ sơ khai thuế trong thời hạn 10 năm kể từ ngày hết thời hạn nộp hồ sơ khai thuế của kỳ tính thuế có sai, sót nhưng trước khi cơ quan thuế, cơ quan có thẩm quyền công bố quyết định thanh tra, kiểm tra.

2. Khi cơ quan thuế, cơ quan có thẩm quyền đã công bố quyết định thanh tra, kiểm tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế thì người nộp thuế vẫn được khai bổ sung hồ sơ khai thuế; cơ quan thuế thực hiện xử phạt vi phạm hành chính về quản lý thuế đối với hành vi quy định tại Điều 142 và Điều 143 của Luật này.

3. Sau khi cơ quan thuế, cơ quan có thẩm quyền đã ban hành kết luận, quyết định xử lý về thuế sau thanh tra, kiểm tra tại trụ sở của người nộp thuế thì việc khai bổ sung hồ sơ khai thuế được quy định như sau:

a) Người nộp thuế được khai bổ sung hồ sơ khai thuế đối với trường hợp làm tăng số tiền thuế phải nộp, giảm số tiền thuế được khấu trừ hoặc giảm số tiền thuế được miễn, giảm, hoàn và bị xử phạt vi phạm hành chính về quản lý thuế đối với hành vi quy định tại Điều 142 và Điều 143 của Luật này;

b) Trường hợp người nộp thuế phát hiện hồ sơ khai thuế có sai, sót nếu khai bổ sung làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc làm tăng số tiền thuế được khấu trừ, tăng số tiền thuế được miễn, giảm, hoàn thì thực hiện theo quy định về giải quyết khiếu nại về thuế.

4. Hồ sơ khai bổ sung hồ sơ khai thuế bao gồm:

a) Tờ khai bổ sung;

b) Bản giải trình khai bổ sung và các tài liệu có liên quan.”

- Căn cứ Khoản 4, Điều 7 Nghị định số 126/2020/NĐ-CP ngày 19 tháng 10 năm 2020 của Chính phủ quy định về kê khai bổ sung như sau:

“4. Người nộp thuế được nộp hồ sơ khai bổ sung cho từng hồ sơ khai thuế có sai, sót theo quy định tại Điều 47 Luật Quản lý thuế và theo mẫu quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Người nộp thuế khai bổ sung như sau:

a) Trường hợp khai bổ sung không làm thay đổi nghĩa vụ thuế thì chỉ phải nộp Bản giải trình khai bổ sung và các tài liệu có liên quan, không phải nộp Tờ khai bổ sung.

Trường hợp chưa nộp hồ sơ khai quyết toán thuế năm thì người nộp thuế khai bổ sung hồ sơ khai thuế của tháng, quý có sai, sót, đồng thời tổng hợp số liệu khai bổ sung vào hồ sơ khai quyết toán thuế năm.

Trường hợp đã nộp hồ sơ khai quyết toán thuế năm thì chỉ khai bổ sung hồ sơ khai quyết toán thuế năm; riêng trường hợp khai bổ sung tờ khai quyết toán thuế thu nhập cá nhân đối với tổ chức, cá nhân trả thu nhập từ tiền lương, tiền công thì đồng thời phải khai bổ sung tờ khai tháng, quý có sai, sót tương ứng.

b) Người nộp thuế khai bổ sung dẫn đến tăng số thuế phải nộp hoặc giảm số thuế đã được ngân sách nhà nước hoàn trả thì phải nộp đủ số tiền thuế phải nộp tăng thêm hoặc số tiền thuế đã được hoàn thừa và tiền chậm nộp vào ngân sách nhà nước (nếu có).

Trường hợp khai bổ sung chỉ làm tăng hoặc giảm số thuế giá trị gia tăng còn được khấu trừ chuyển kỳ sau thì phải kê khai vào kỳ tính thuế hiện tại. Người nộp thuế chỉ được khai bổ sung tăng số thuế giá trị gia tăng đề nghị hoàn khi chưa nộp hồ sơ khai thuế của kỳ tính thuế tiếp theo và chưa nộp hồ sơ đề nghị hoàn thuế.”

Căn cứ Điều 19 Nghị định số 123/2020/NĐ-CP ngày 19 tháng 10 năm 2020 của Chính phủ quy định về hóa đơn sai sót.

Căn cứ quy định nêu trên, theo nội dung trình bày tại văn bản, Cục Thuế trả lời nguyên tắc cho Công ty như sau:

   Trường hợp đối tác của Công ty độc giả đang quản lý thực hiện hủy hóa đơn nhưng không thực hiện theo quy định tại Điều 19 Nghị định số 123/2020/NĐ-CP thì thực hiện như sau: Công ty của độc giả thực hiện kê khai bổ sung theo quy định tại Điều 47 Luật Quản lý Thuế số 38/2019/QH14 và Khoản 4, Điều 7 Nghị định số 126/2020/NĐ-CP.

Đề nghị Công ty của độc giả căn cứ tình hình thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh và đối chiếu với các quy định tại các văn bản pháp luật để áp dụng theo quy định.

Trong quá trình thực hiện chính sách thuế, trường hợp còn vướng mắc, người nộp thuế liên hệ và cung cấp hồ sơ cho Cơ quan Thuế quản lý trực tiếp để được hỗ trợ giải quyết.

Trên đây là ý kiến của Cục Thuế tỉnh Bình Dương gửi độc giả Mai Thanh Hiền để biết và thực hiện theo quy định.

PV
Bạn đang đọc bài viết Giải pháp nào giúp doanh nghiệp giảm bớt rủi ro về Thuế tại chuyên mục Hỏi - Đáp của Tạp chí Tài chính doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác:

email: [email protected], hotline: 086 508 6899

Bình luận

Tin liên quan

Gia hạn, miễn giảm hơn 155.000 tỷ đồng tiền thuế trong 2022
Bộ Tài chính cho biết, tổng số thuế đã gia hạn năm 2022 ước khoảng 105,9 nghìn tỷ đồng, bằng khoảng 78,5% số dự kiến khi xây dựng Chương trình (135 nghìn tỷ đồng); tổng số thuế miễn, giảm trong năm 2022 ước khoảng 50,2 nghìn tỷ đồng, bằng 78,4% số dự kiến khi xây dựng Chương trình (64 nghìn tỷ đồng).