Giải pháp quản lý tài chính tại các trường đại học ngoài công lập
TCDN - Bài viết tập trung phân tích các quy định về quản lý tài chính đối với các trường đại học ngoài công lập, trên cơ sở đó, tác giả đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả tại các trường đại học công lập.
TÓM TẮT:
Sau 30 năm xây dựng, hình thành, phát triển, vai trò và sự đóng góp của khối các trường đại học ngoài công lập cho sự nghiệp phát triển giá dục đào tạo của đất nước ngày càng được nâng cao và rõ nét, thể hiện qua các con số về quy mô đào tạo hơn 300.000 sinh viên, nơi công tác của một đội ngũ hơn 22.000 giảng viên, các nhà khoa học.
Các trường đại học ngoài công lập tại Việt Nam đã tự chủ trong đầu tư cơ sở vật chất phục vụ đào tạo, nghiên cứu và thu hút nhân lực giảng dạy chất lượng cao. Tuy nhiên, trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ, yêu cầu các trường đại học ngoài công lập vừa phải đảm bảo nguồn tài chính, vừa nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để nâng cao vị thế cạnh tranh trong bối cảnh mới.
Bài viết tập trung phân tích các quy định về quản lý tài chính đối với các trường đại học ngoài công lập, trên cơ sở đó, tác giả đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả tại các trường đại học công lập.
1. Đặt vấn đề
Trường đại học ngoài công lập là cơ sở giáo dục đại học thuộc hệ thống giáo dục quốc dân do các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế hoặc cá nhân thành lập, đầu tư cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí hoạt động bằng vốn ngoài ngân sách nhà nước, hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện góp vốn, tự chủ về tài chính và các hoạt động đào tạo theo quy định của pháp luật, tự cân đối thu - chi, thực hiện các quy định về chế độ kế toán, thống kê và thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước.
Tại nhiều quốc gia trên thế giới, giáo dục ngoài công lập được xem như một phần bổ sung quan trọng cho khu vực giáo dục đại học công lập, đáp ứng hiệu quả và linh hoạt yêu cầu của người học và đơn vị tuyển dụng. Giáo dục đại học ngoài công lập còn góp phần mở rộng quy mô giáo dục đại học của quốc gia với chi phí công không đáng kể. Ở một số nước, tỷ lệ sinh viên học tại các trường đại học ngoài công lập chiếm khá lớn, như: Philipines chiếm 86%, Hàn Quốc 75%, Braxin, Indonesia, Bangladet, Columbia chiếm 60%.
Trước xu thế phát triển chung về giáo dục đại học ngoài công lập của thế giới, bên cạnh sự phát triển của hệ thống giáo dục đại học công lập, các trường đại học ngoài công lập ở Việt Nam đã từng bước được thành lập, góp phần đa dạng hóa hệ thống giáo dục, đáp ứng nhu cầu đào tạo ngày càng cao của xã hội. Đến nay, cả nước đã có 60 trường đại học ngoài công lập, chiếm 26% tổng số các trường đại học và chiếm gần 15% tổng số sinh viên trên cả nước, phân bổ ở 29/63 tỉnh, thành phố.
Các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập có 22.246 giảng viên, trong đó giáo sư chiếm khoảng 0,89%, phó giáo sư chiếm 4,5%, tiến sĩ chiếm 22,68%. Có 18/60 cơ sở giáo dục đại học tư thục được nhà đầu tư thành lập tổ chức kinh tế, theo quy định của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp để quản lý; 42 cơ sở giáo dục đại học tư thục được nhà đầu tư quản lý trực tiếp.
Trước bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng Công nghệ 4.0, yêu cầu các trường đại học ngoài công lập vừa phải đảm bảo nguồn tài chính, vừa nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để nâng cao vị thế cạnh tranh trong bối cảnh mới. Vì vậy, việc phân tích thực trạng quản lý tài chính của các trường đại học ngoài công lập, từ đó đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý tài chính cho các trường đại học ngoài công lập trong thời gian tới là cần thiết.
2. Thực trạng
Sau 30 năm xây dựng, hình thành, phát triển, vai trò và sự đóng góp của khối các trường đại học ngoài công lập cho sự nghiệp phát triển giáo dục - đào tạo của đất nước ngày càng được nâng cao và rõ nét, thể hiện qua các con số về quy mô đào tạo hơn 300.000 sinh viên, nơi công tác của một đội ngũ hơn 22.000 giảng viên, các nhà khoa học. Kết quả này góp phần khẳng định sự đúng đắn của chủ trương xã hội hóa trong giáo dục và đào tạo của Đảng, Nhà nước trong thời gian qua.
Theo GS.TS Phạm Thành Huy, Hiệu trưởng Trường Đại học Phenikaa, với khả năng tài chính độc lập, các trường đại học ngoài công lập tự chủ trong đầu tư cơ sở vật chất phục vụ đào tạo, nghiên cứu và thu hút nhân lực giảng dạy chất lượng cao. Đã hình thành những trường đại học ngoài công lập được đầu tư bài bản từ khuôn viên, cơ sở vật chất phục vụ đào tạo, thực hành, nghiên cứu, đến việc phát triển các chương trình đào tạo và đầu tư thu hút nhân tài, phát triển đội ngũ.
Sự đầu tư này góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và nghiên cứu, đồng thời đưa ra những giải pháp sáng tạo cho các vấn đề mà xã hội và nền kinh tế yêu cầu.
Các chính sách của Nhà nước, của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã trao quyền tự chủ cao hơn (đối với các trường thực hiện tốt công tác tự đánh giá, đảm bảo chất lượng và kiểm định chất lượng), giúp các trường đại học ngoài công lập có thể chủ động phát triển các chương trình đào tạo, thích ứng nhanh chóng với sự thay đổi của xã hội và nhu cầu của thị trường lao động.
Một số trường đại học ngoài công lập được đầu tư bởi các tập đoàn công nghệ, công nghiệp, có ưu thế tạo nên sự kết nối giữa đại học và công nghiệp, doanh nghiệp; tạo nên môi trường thuận lợi để người học trải nghiệm, thực tập thực hành tại doanh nghiệp; thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, đổi mới sáng tạo gắn với những bài toán của thực tiễn sản xuất. Tất cả những điều này giúp sinh viên phát triển kỹ năng, có cơ hội áp dụng kiến thức thực tế, trưởng thành và có cơ hội thành công trong cuộc sống.
Ngoài những thuận lợi, GS.TS Phạm Thành Huy cho biết các trường đại học ngoài công lập cũng có những khó khăn như việc phát triển khuôn viên, đầu tư cơ sở vật chất đầy đủ phục vụ hoạt động đào tạo và nghiên cứu.
Bên cạnh một số trường có sự đầu tư đúng hướng, quan tâm tới chất lượng, thuận lợi trong tuyển sinh thì phần nhiều vẫn còn khó khăn. Các chính sách hiện tại của Nhà nước như chính sách tài chính đầu tư về đất đai, nâng cao năng lực, chính sách tài trợ các đề tài, dự án, cơ chế thi đua khen thưởng, chế độ vinh danh nhà giáo trong khối đại học ngoài công lập vẫn còn một số rào cản, khiến giảng viên trong khối ngoài công lập còn nhiều thiệt thòi so với khối đại học công lập.
Các chuyên gia cũng cho rằng, nguồn lực tài chính của các trường ngoài công lập còn hạn chế, học phí là nguồn thu chủ yếu của các trường, chiếm 90% tổng thu của toàn trường. Điều này phản ánh một thực tế là hoạt động của các trường đại học ngoài công lập chủ yếu dựa vào hoạt động đào tạo. Công tác tuyển sinh của các trường gặp khó khăn tại tất cả các hệ đào tạo một phần do cơ chế, chính sách tuyển sinh, một phần do địa điểm xây dựng trường ở một số địa phương.
Thực tế cho thấy, việc quản lý nguồn lực tài chính tại các trường đại học ngoài công lập ở Việt Nam thời gian qua còn tồn tại một số vấn đề sau:- Nguồn thu sự nghiệp của các các trường đại học ngoài công lập chủ yếu vẫn từ học phí. Các nguồn thu khác từ dịch vụ tư vấn và chuyển giao khoa học công nghệ, dịch vụ tư vấn giáo dục đào tạo theo hợp đồng cho các tổ chức và cá nhân trong nước, dịch vụ tổ chức thi tuyển dụng nhân sự... còn hạn chế.
- Mức học phí hiện nay ở các các trường đại học ngoài công lập còn thấp, chưa tương ứng với chi phí đào tạo thực tế của các nhóm ngành và các loại hình đào tạo ở bậc đại học. Trung bình học phí giai đoạn 2020-2022 dao động từ 10-20 triệu đồng/năm học/sinh viên.
- Các trường đại học ngoài công lập vẫn đang bị hạn chế về chỉ tiêu đào tạo theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Để tăng nguồn thu, các trường đã mở rộng các loại hình đào tạo như đào tạo không chính quy, liên kết đào tạo. Tuy nhiên, trên thực tế số lượng sinh viên tuyển mới của các loại hình đào tạo này ở các trường đại học ngoài công lập có xu hướng giảm mạnh trong vài năm gần đây, tác động rất lớn đến nguồn thu của các trường.
- Hoạt động huy động vốn từ các tổ chức tín dụng và các tổ chức, cá nhân khác nhằm hỗ trợ việc cung cấp dịch vụ giáo dục đại học theo nhu cầu của các trường ngoài công lập còn nhiều hạn chế do chưa có văn bản hướng dẫn để tổ chức thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
Mặt khác, hoạt động đầu tư tài chính của các trường đại học ngoài công lập còn hạn chế. Thu nhập từ hoạt động tài chính của các trường chủ yếu chỉ là lãi tiền gửi ở các tổ chức tín dụng.
Một vấn đề khác, nguồn tài chính từ tài trợ, viện trợ, ủng hộ, quà tặng của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước chưa hiệu quả. Các trường đại học ngoài công lập chủ yếu tự cân đối
- Một số trường còn lúng túng trong xây dựng và triển khai quy chế chi tiêu nội bộ; khả năng cân đối thu - chi còn nhiều hạn chế, lập dự toán thu sự nghiệp thấp hơn nhiều so với thực hiện.
3. Giải pháp
Qua thực tiễn nghiên cứu, tác giả đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý tài chính tại các trường đại học ngoài công lập từ 4 khía cạnh, đó là: Huy động nguồn lực tài chính; sử dụng nguồn lực tài chính; phân phối các kết quả tài chính và các công cụ quản lý tài chính.
Thứ nhất, nhóm giải pháp về huy động các nguồn tài chính
Nguồn lực tài chính của các trường đại học ngoài công lập là yếu tố hết sức quan trọng, là điều kiện không thể thiếu được trong quá trình cải cách đổi mới hoạt động của nhà trường. Mục tiêu đặt ra đối với các trường là đa dạng hóa, các nguồn lực, các kênh và cách thức huy động, đặc biệt chú trọng đến việc huy động nguồn lực tài chính từ hoạt động sự nghiệp đào tạo nghiên cứu khoa học. Cùng với đó, các trường đại học công lập cần tập trung triển khai các nội dung sau:
Một là, để các trường tối đa hóa doanh thu hoạt động thì cách trực tiếp và phổ biến nhất đó là gia tăng số lượng sinh viên đầu vào, mở rộng quy mô của nhà trường.
Muốn vậy, các trường phải không ngừng nâng cao danh tiếng, giá trị và tầm ảnh hưởng của tổ chức, các trường cần chú trọng xây dựng và giữ vững thương hiệu trong hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học bởi thương hiệu chính là tiền đề quyết định cho việc gia tăng việc huy động các nguồn lực tài chính của nhà trường.
Hai là, tăng cường nguồn thu được tạo ra từ các hoạt động thương mại, hợp đồng nghiên cứu và cung cấp dịch vụ hay từ các nguồn quỹ từ thiện, tài trợ từ mạng lưới cựu sinh viên.
Thứ hai, nhóm giải pháp về quản lý sử dụng tài chính hiệu quả và tiết kiệm
Phương hướng chung quản lý sử dụng các nguồn lực tài chính là tập trung nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học của nhà trường, từng bước giảm dần tỷ trọng các khoản chi mang tính chất hành chính. Nhằm thực hiện các phương hướng trên giải pháp thực hiện là:
- Nâng cao chất lượng đào tạo
Chất lượng đào tạo phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trước hết phụ thuộc vào đội ngũ giảng viên; nội dung chương trình đào tạo; cơ sở vật chất phục vụ đào tạo, tổ chức quản lý đào tạo cũng như đánh giá kết quả học tập của sinh viên. Trong thời gian tới, tùy theo điều kiện của từng trường, cần tập trung nguồn lực tài chính: (i) đào tạo, đào tạo lại đội ngũ giảng viên; (ii) đổi mới nội dung chương trình; (iii) tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học; (iv) đổi mới phương pháp quản lý và đánh giá kết quả học tập của sinh viên.
- Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học
Để nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học trong các trường đại học ngoài công lập cần thiết phải: tăng cường cơ sở vật chất và kinh phí cho hoạt động nghiên cứu; có cơ chế để quy đổi giờ nghiên cứu khoa học thành giờ giảng với một tỷ lệ nhất định, để giảng viên có thể yên tâm hơn khi nghiên cứu mà không lo không đủ giờ giảng; tạo điều kiện cho giảng viên tham gia nghiên cứu khoa học có nhiều cơ hội tiếp xúc, tham gia những hoạt động nghiên cứu; kết hợp chặt chẽ giữa trường với viện nghiên cứu để sử dụng, phổ biến các kết quả nghiên cứu vào giảng dạy và học hỏi thêm kinh nghiệm nghiên cứu .
- Giải bài toán hiệu quả tài chính trong các trường đại học ngoài công lập
Đi liền với việc đổi mới, hoàn thiện cơ cấu phân bổ nguồn lực tài chính, vấn đề quan trọng hiện nay đối với công tác quản lý tài chính tại các trường đại học ngoài công lập là không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính. Hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính là sự so sánh giữa chi phí bỏ ra cho hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học với những quả đạt được của đầu ra.
- Xây dựng và hoàn thiện một số chính sách khoán và giao quyền tự chủ về tài chính cho các đơn vị có quy mô lớn trong các trường đại học ngoài công lập. Cần phải phân cấp tài chính cho các khoa dựa vào số lượng sinh viên của từng khoa. Theo đó các khoa được tự chủ chi tiêu và tự chịu trách nhiệm với các khoản chi tiêu tại đơn vị mình trên cơ sở kế hoạch tài chính đã được duyệt. Việc phân quyền tự chủ cho các khoa trước mắt tạo cho trưởng khoa có trách nhiệm hơn và cán bộ giảng dạy ở các khoa có thể tiếp cận các nguồn tài chính một cách nhanh chóng và tránh những rủi ro có thể xảy ra khi tập trung việc chi tiêu, lựa chọn nhà cung cấp tại một số đơn vị.
- Hợp tác toàn diện với doanh nghiệp theo nguyên tắc win-win.
Trước hết để tiết kiệm chi phí đầu tư trang thiết bị thực hành, không cần xây dựng nhiều mô hình dạy học, một giải pháp hợp lý nữa đó là tăng cường mối quan hệ với doanh nghiệp, đơn vị ngoài trường nhằm gửi sinh viên đến thực tập tại cơ sở của họ một mặt tiết kiệm được chi phí, mặt khác sinh viên sẽ tiếp cận được các trang thiết bị hiện đại, phương tiện dạy học tiên tiến, phần mềm mới. Hơn nữa hợp tác tốt với doanh nghiệp sẽ tìm kiếm được nhiều cơ hội học bổng, việc làm cho sinh viên.
Thứ ba, nhóm giải pháp về phân phối các kết quả tài chính
Yêu cầu đặt trong phân phối kết quả tài chính đối với các trường đại học ngoài công lập là: (i) bảo đảm tính công khai minh bạch; (ii) gắn sự phân phối kết quả tài chính với sự cống hiến của các thành viên, các đơn vị trong nhà trường; (iii) hướng vào sự phát triển bền vững lâu dài của nhà trường; (iv) Đảm bảo những quy định của Nhà nước.
Để thực hiện các yêu cầu kể trên, công tác quản lý quá trình phân phối và sử dụng kết quả tài chính hàng năm của nhà trường cần thực hiện các giải pháp chủ yếu sau đây:
- Xây dựng các tiêu chí đánh giá năng lực và kết quả hoạt động của cán bộ viên chức trong trường dựa trên tính chất từng loại công việc, từ đó đưa ra phương án phân phối và điều chỉnh phương án chi thu nhập tăng thêm cho phù hợp với năng lực.
- Hoàn thiện và tổ chức thực hiện quy chế chi tiêu nội bộ với các yêu cầu: đảm bảo tính công khai minh bạch, dân chủ; đảm bảo vai trò kiểm soát của Ban thanh tra nhân dân trong nhà trường.
- Tổ chức công khai bình xét thi đua hàng năm dựa trên hệ thống tiêu chí đánh giá năng lực và kết quả cống hiện của từng thành viên, từng bộ phận để xác định mức độ phân phối. Nên đưa hệ thống đánh giá KPI (Key Performance Indicator - hệ thống chỉ số đo lường thành công của một công việc) vào đánh giá các mảng hoạt động của nhà trường và quản lý cán bộ viên chức của các trường.
Thứ tư, đổi mới việc áp dụng các công cụ quản lý tài chính
Trên cơ sở khảo sát thực tế việc sử dụng các công cụ quản lý tài chính của các trường trong thời gian qua, tác giả đề xuất: Đối với vấn đề lập dự toán, cần nghiên cứu áp dụng việc lập dự toán theo kết quả đầu ra.
Đối với việc sử dụng công cụ kế toán, cần nghiên cứu áp dụng kế toán quản trị thay cho việc sử dụng kế toán tài chính nhằm giúp ích cho công tác quản trị tài chính của nhà trường. Đối với giám sát nội bộ, luận án đề xuất chủ yếu hoàn thiện công tác tổ chức và nhân sự thực hiện công tác kiểm soát nội bộ.
Ngoài ra, các trường đại học ngoài công lập cần rà soát và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý tài chính để thực hiện tốt cơ chế tự chủ tài chính trong thời gian tới. Bên cạnh đó luận án cũng gợi ý các trường nên chọn mô hình quản lý làm kim chỉ nam cho các hoạt động nhằm mang lại hiệu quả tốt nhất cho nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học (mô hình thẻ bảng điểm cân bằng BSC là một mô hình gợi ý).
Tài liệu tham khảo:
Quốc hội (2018), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục Đại học, số 34/2018/QH14.
Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 61/2009/QĐ-TTg ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của trường đại học tư thục.
Hoàng Thục Minh (2014). Khi đại học tư thục cạnh tranh. Báo Kinh tế Sài Gòn online. Truy cập tại https://thesaigontimes.vn/khi-dai-hoc-tu-thuc-canh-tranh/
Nguyễn Thái Hoàng (2021). Thực trạng và xu hướng phát triển trường đại học tư thục hiện nay. Truy cập tại https://thesaigontimes.vn/khi-dai-hoc-tu-thuc-canh-tranh/
NCS. Vũ Thị Thảo
Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội
email: [email protected], hotline: 086 508 6899