Kinh nghiệm cơ cấu lại DNNN tại một số quốc gia trên thế giới và bài học đối với Việt Nam (tiếp)
TCDN - Qua nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước về Quản lý và đầu tư vốn nhà nước, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong xây dựng mô hình quản lý và đầu tư vốn Nhà nước
3. Hungary
Quá trình tái cấu trúc các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) ở Hungary gắn liền với quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường của quốc gia này. Hungary là một trong số ít các nước ở Trung Âu sớm có những cải cách, chuyển đổi chính sách cơ chế quản lý từ mô hình kế hoạch hóa tập trung sang mô hình kinh tế thị trường từ những năm 80 của thế kỷ XX với những nội dung chủ yếu là:
- Xóa bỏ chế độ chủ quản đối với doanh nghiệp. Nhiệm vụ chính của các Bộ được xác định là giúp Chính phủ hoạch định chiến lược phát triển cho các ngành và xây dựng các chính sách, cơ chế để khuyến khích, động viên các doanh nghiệp trong các ngành phát triển theo chiến lược chung của nền kinh tế.
- Cùng với việc hoàn thiện hệ thống chính sách thuế từ gián thu sang trực thu, chính sách cơ chế quản lý DNNN cũng được hoàn thiện theo hướng nâng cao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh, giảm tối đa sự can thiệp của nhà nước đối với hoạt động quản trị điều hành của doanh nghiệp.
- Các doanh nghiệp tự kê khai, tự thực hiện và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước. Cho đến nay Hungary đã cơ bản hoàn thành việc chuyển đổi mô hình quản lý doanh nghiệp từ mệnh lệnh hành chính sang mô hình quản lý theo cơ chế thị trường.
- Việc giám sát hoạt động của các DNNN chủ yếu do các cơ quan thuế, cơ quan đăng ký kinh doanh và công ty tư nhân hóa quản lý tài sản nhà nước (APV Rt) thực hiện thông qua chế độ báo cáo tài chính, chế độ cử người đại diện sở hữu phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, hoặc thông qua Hội đồng quản trị các công ty cổ phần hoặc công ty TNHH 1 chủ sở hữu.
- Hungary cũng là nước đầu tiên ở Trung Âu thực hiện việc tư nhân hóa các công ty dịch vụ công cộng chiến lược của nền kinh tế như: Dầu khí, Bưu chính viễn thông… Năm 1968, Chính phủ Hungary thực hiện cải cách cơ chế kinh tế với mong muốn sử dụng kết hợp công cụ thị trường cùng kế hoạch như là những công cụ điều tiết hữu hiệu. Kể từ đó, nhu cầu tái cấu trúc các DNNN bắt đầu rõ nét ở nước này.
Nhu cầu tái cấu trúc các DNNN ở Hungary xuất phát từ các vấn đề đáng lo ngại của các DNNN gồm:
(i) Cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung cao độ dẫn đến hiệu quả hoạt động kém, năng suất lao động thấp và thiếu cạnh tranh ở các DNNN;
(ii) Nợ các doanh nghiệp và các công ty con cao;
(iii) Cơ chế ngân sách nới lỏng dối với các doanh nghiệp đã thủ tiêu khuyến khích cần thiết cho các doanh nghiệp.
Trên cơ sở đó, quá trình tái cấu trúc các DNNN ở Hungary gắn liền với 3 giai đoạn cơ bản bao gồm:
- Giai đoạn 1 (1988-1990): tái cấu trúc DNNN theo cách tiếp cận từ dưới lên (còn gọi là tư nhân hóa tự phát);
- Giai đoạn 2 (1990-1992): tiếp tục quá trình tái cấu trúc (tư nhân hóa tập trung);
- Giai đoạn 3 (sau 1992): tái cấu trúc DNNN theo cách tiếp cận từ trên xuống, đẩy mạnh tiến trình chuyển đổi sở hữu và tư nhân hóa. Đây là giai đoạn quan trọng nhất.
4. Ba Lan
4.1. Bối cảnh kinh tế xã hội và yêu cầu tái cấu trúc các DNNN
Quá trình phát triển kinh tế cho tới những năm 1970 đã từng ghi nhận vai trò tích cực khu vực DNNN như một công cụ hữu hiệu để đạt các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước, không chỉ ở các nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung mà ở ngay những nước công nghiệp phát triển. Tuy nhiên, thực tiễn sau đó đã bộc lộ những yếu kém của DNNN và cải cách DNNN trở thành đòi hỏi bức thiết ở hầu hết các quốc gia. Tại các nền kinh tế chuyển đổi, đặc biệt là ở Đông Âu từ đầu thập kỷ 90, cải cách DNNN vừa là mục tiêu, vừa là giải pháp để thực hiện cải cách kinh tế thị trường, giảm dần vai trò của Nhà nước; nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của chính các DNNN, tạo điều kiện nâng cao sức cạnh tranh và tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế thông qua việc tăng cường các nguồn lực do DNNN nắm giữ cho khu vực tư nhân, trong đó tư nhân hoá và chuyển đổi sở hữu DNNN được áp dụng như một biện pháp quan trọng hàng đầu.
4.2. Các nguyên tắc, định hướng tái cấu trúc đối với các DNNN
Việc ban hành Luật Tư nhân hóa DNNN ngày 13 tháng 7 năm 1990 (sau đó thay thế bằng Luật Thương mại-Tư nhân hóa ngày 30 tháng 8 năm 1996) hình thành cơ sở pháp lý quan trọng và đánh dấu thời điểm bước ngoặt cho quá trình cải cách DNNN Ba Lan. Kể từ đó, nhiều phương thức và biện pháp đẩy mạnh cải cách DNNN đã được thực hiện như chuyển đổi sở hữu DNNN, đổi mới cơ chế hoạt động của DNNN theo nguyên tắc thị trường và cạnh tranh, giải thể, phá sản các DNNN yếu kém. Trong đó, Ba Lan đặc biệt quan tâm đến vấn đề tư nhân hóa DNNN - tức chuyển quyền sở hữu đối với vốn và tài sản trong doanh nghiệp từ Nhà nước sang khu vực kinh tế tư nhân, bao gồm tư nhân hóa trực tiếp và tư nhân hóa gián tiếp.
a) Tư nhân hóa trực tiếp
Tư nhân hóa trực tiếp là chuyển đổi sở hữu tài sản của doanh nghiệp từ Nhà nước sang các chủ sở hữu thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Về phương diện pháp luật, việc tư nhân hóa trực tiếp một DNNN sẽ dẫn tới chấm dứt hình thức pháp lý của doanh nghiệp đó. Mục tiêu và đối tượng quan trọng nhất của tư nhân hóa trực tiếp là nhanh chóng chuyển đổi sở hữu các DNNN vừa và nhỏ. Trong tổ chức thực hiện, đặc điểm của quá trình tư nhân hóa trực tiếp DNNN là có sự phân cấp mạnh mẽ. Bộ trưởng Bộ Ngân khố thực hiện chức năng chủ sở hữu, nhưng người trực tiếp chỉ đạo thực hiện là thủ trưởng cơ quan ngân khố của các tỉnh trong toàn quốc. Tuy nhiên, Bộ Ngân khố vẫn đóng vai trò giám sát và kiểm tra khi tiến hành tư nhân hóa trực tiếp DNNN.
Từ năm 2002, Bộ trưởng Bộ Ngân khố ủy quyền cho Chủ nhiệm Văn Phòng Vùng của Bộ Ngân khố thực hiện chức năng giám sát quá trình tư nhân hóa trực tiếp DNNN của các tỉnh. Thủ trưởng cơ quan ngân khố cấp tỉnh có trách nhiệm đề xuất, lập danh sách, xây dựng kế hoạch và các công việc chuẩn bị khác; lựa chọn nhà đầu tư; xác định thời hạn và điều kiện chuyển đổi; hoàn thiện các thủ tục (sau khi được Bộ Ngân khố phê duyệt) cũng như ký kết các hợp đồng với nhà đầu tư theo ủy quyền của Bộ Ngân khố.
Tư nhân hóa trực tiếp DNNN không chỉ liên quan đến chuyển giao quyền sở hữu đối với vốn, tài sản mà bao gồm cả việc thực hiện các nghĩa vụ đối với người lao động của doanh nghiệp và các vấn đề khác có liên quan như bảo vệ môi trường sinh thái khi thực hiện các hoạt động đầu tư, bảo đảm mối quan hệ và trách nhiệm xã hội với địa phương...
Trong thực tế ở Ba lan từ năm 1990 đến nay, các biện pháp tư nhân hóa trực tiếp DNNN bao gồm: Bán doanh nghiệp, góp tài sản của DNNN vào một công ty cổ phần/công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) và giao doanh nghiệp có thu tiền (cho thuê toàn bộ DNNN).
- Bán doanh nghiệp:
Bản chất của bán DNNN là Nhà nước chuyển đổi quyền sở hữu toàn bộ tài sản doanh nghiệp cho nhà đầu tư bên ngoài thông qua việc ký kết hợp đồng mua-bán, trong đó, tài sản doanh nghiệp bao gồm cả tài sản hữu hình và tài sản vô hình (tài sản hiện vật, các khoản nợ, người lao động, đối tác kinh doanh, khách hàng...). Nhà đầu tư mua doanh nghiệp là người được lựa chọn theo một trong hai phương thức: đấu giá công khai hoặc mời thương lượng trả giá công khai. Từ số tiền thu được do bán DNNN, 85% trả về Bộ Ngân khố và 15% cho người lao động nhưng dưới hình thức hình thành Quỹ Trợ cấp xã hội của công ty sau khi bán. Việc thanh toán có thể thực hiện nhiều lần. Lần đầu phải đạt ít nhất 20% giá bán, tuy nhiên, phần còn lại có thể bị tính lãi nếu quá thời hạn 5 năm. Vào ngày ký kết hợp đồng, nhà đầu tư có nghĩa vụ trả ngay 15% giá bán để đưa vào Quỹ Trợ cấp xã hội.
- Góp tài sản DNNN vào một công ty cổ phần/công ty TNHH khác:
Phương thức tư nhân hóa này có thể mô tả tóm lược như sau: Chủ sở hữu nhà nước (Bộ Ngân khố làm đại diện) sử dụng các tài sản hiện vật của DNNN để hình thành nên tài sản chung của một công ty khác và trở thành đồng sở hữu của công ty đó. Công ty này được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty TNHH với cơ cấu sở hữu vốn điều lệ bao gồm: Sở hữu của các nhà đầu tư bên ngoài (các công ty hoặc thể nhân khác) tối thiểu chiếm 25%; sở hữu của người lao động (thông qua hình thành Quỹ Trợ cấp xã hội) tối đa 15%; còn lại là sở hữu nhà nước với giá trị tùy theo từng công ty và phụ thuộc vào mức tài sản đã đóng góp.
Khác với trường hợp bán doanh nghiệp, việc lựa chọn nhà đầu tư để cùng với Bộ Ngân khố trở thành các đồng chủ sở hữu của công ty cổ phần/công ty TNHH chỉ dựa trên cơ sở thương lượng trực tiếp sau khi có thư mời công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đối tượng áp dụng của biện pháp tư nhân hóa trực tiếp này là các doanh nghiệp cần có nguồn tài chính lớn và chắc chắn có các nhà đầu tư chiến lược tham gia vào công ty. Người lao động, các chủ nợ, cá nhân, thể nhân và pháp nhân bên ngoài cũng có thể tham gia thương lượng để trở thành đồng sở hữu của công ty.
- Giao DNNN có thu tiền (cho thuê):
Giao doanh nghiệp có thu tiền là hình thức tư nhân hóa tương đối phức tạp, diễn ra khi một công ty TNHH hoặc công ty cổ phần thuê lại quyền sở hữu đối với toàn bộ tài sản của một DNNN theo hợp đồng có thời hiệu không quá năm. Nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định tại của Luật Thương mại-Tư nhân hóa (trả ít nhất 1/3 tiền nợ, chấp nhận bảng tổng kết tài sản và các khoản mục lỗ, lãi) thì công ty này đương nhiên được quyền tiếp quản toàn bộ DNNN. Để được thuê DNNN, công ty phải trả cho chủ sở hữu nhà nước (Bộ Ngân khố) một khoản tiền có giá trị tùy theo hợp đồng ký kết.
Sự phức tạp của hình thức tư nhân hóa trực tiếp này xuất phát từ đối tượng DNNN cho thuê. Thông thường, đây là những DNNN có tình hình tài chính lành mạnh, hoạt động trong các lĩnh vực nhiều lợi thế kinh tế. Đồng thời, công ty thuê phải đáp ứng khá nhiều điều kiện chặt chẽ... để chứng minh tính khả thi trong các cam kết của họ.
b) Tư nhân hóa gián tiếp
Tư nhân hóa gián tiếp DNNN là việc chuyển DNNN thành công ty một chủ sở hữu tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần/công ty TNHH hoạt động theo Luật Công ty thương mại (vì vậy, còn được gọi là thương mại hóa DNNN), sau đó mới bán tiếp toàn bộ hoặc một phần cổ phần/vốn góp cho khu vực tư nhân.
Dưới hình thức của công ty cổ phần/công ty TNHH một chủ, Bộ Ngân khố vẫn nắm giữ 100% cổ phần/vốn góp của công ty và Bộ trưởng Bộ Ngân khố đại diện cho bộ trở thành chủ sở hữu duy nhất tại Đại hội cổ đông/Hội nghị thành viên. Công ty là người thừa kế hợp pháp của DNNN và hoạt động theo Luật Công ty Thương mại Ba Lan và Luật Thương mại-Tư nhân Hóa kể từ ngày chuyển đổi hình thức pháp lý.
Việc bán cổ phần/vốn góp cho các nhà đầu tư khác thực hiện theo quy định về giao dịch thương mại công. Các nhà đầu tư được lựa chọn thông qua các phương thức: Chào bán công khai, đấu thầu công khai, mời thương lượng công khai. Trước khi thông báo việc bán cổ phần/vốn góp, sẽ có các hoạt động phân tích, đánh giá hoạt động và định giá tài sản công ty. Để thuận lợi cho quá trình thương lượng và giao dịch với người mua, Bộ Ngân khố hình thành một đội ngũ chuyên gia tư vấn có chất lượng và uy tín từ các công ty và tổ chức tư vấn nổi tiếng trong ngoài nước.
Tương tự như các biện pháp cải cách DNNN khác, việc tư nhân hóa gián tiếp DNNN phải bảo đảm quyền lợi cho người lao động. Theo quy định của Luật tư nhân hóa, người lao động của công ty nhận được tới 15% cổ phần/vốn góp của Bộ Ngân khố. Sau 2 năm, họ có thể bán cổ phần của mình theo giá thị trường.
- Bán cổ phần/vốn góp nhà nước thông qua hình thức chào bán công khai (Bán qua sàn giao dịch):
Nếu đáp ứng đủ các điều kiện về quy mô, giá trị tài sản, kết quả sản xuất kinh doanh và triển vọng phát triển theo Luật về Giao dịch chứng khoán, công ty có thể chào bán cổ phần lần đầu trên thị trường chứng khoán Vác-Sa-Va. Tất cả các thông tin quan trọng về công ty đều phải công khai và do các công ty tư vấn độc lập có trách nhiệm thực hiện.
Cơ cấu cổ phần/vốn góp bán ra do Bộ trưởng Bộ Ngân khố quyết định, trong đó có một tỷ lệ bắt buộc bán cho các nhà đầu tư nhỏ là cá nhân, một phần khác giành cho các nhà đầu tư là tổ chức (ngân hàng, các quỹ đầu tư), sau đó mới bán phần còn lại cho các nhà đầu tư chiến lược. Ưu điểm của việc chào bán công khai này trước hết là tăng mức độ tín nhiệm với các chủ nợ, khách hàng và công chúng cũng như tạo triển vọng tăng các quỹ đầu tư phát triển công ty thông qua việc phát hành cổ phần mới.
- Bán cổ phần/vốn góp thông qua đấu thầu công khai:
Việc bán cổ phần/vốn góp theo phương thức đấu thầu công khai thực hiện theo cơ chế: Các nhà đầu tư trong danh sách do Bộ trưởng Bộ Ngân khố lựa chọn sẽ được mời đến để đưa ra đề nghị mua cả gói một số lượng nhất định cổ phần/vốn góp của công ty. Trong thư mời thầu, Bộ Ngân khố sẽ xác định số lượng tối thiểu cổ phần/vốn góp mà các nhà đầu tư sẽ mua, giá sàn, mức cam kết đầu tư và các cam kết xã hội khác cũng như các điều kiện ràng buộc về thời gian thực hiện. Thư mời thầu phải công khai trước một tháng trên các báo lớn của quốc gia. Các nhà đầu tư tiềm năng sẽ phải cung cấp các thông tin về doanh nghiệp/tổ chức của họ, nộp tiền ký quỹ..., ngược lại, họ sẽ nhận đầy đủ các thông tin về công ty, kể cả thanh sát ngay tại công ty. Sau đó, các nhà đầu tư sẽ nộp hồ sơ thầu vào một thời điểm theo quy định của Bộ Ngân khố. Kết thúc thời hạn nộp hồ sơ, Hội đồng xét thầu (do Bộ trưởng Bộ Ngân khố ký quyết định thành lập) sẽ xem xét cụ thể các hồ sơ và lựa chọn một nhà đầu tư tốt nhất. Đích thân Bộ trưởng Bộ Ngân khố sẽ ký hợp đồng mua-bán cổ phần/vốn góp với nhà đầu tư được lựa chọn.
- Bán cổ phần/vốn góp thông qua hình thức mời thương lượng giá cả công khai: Đối tượng áp dụng của phương thức tư nhân hóa gián tiếp này là các công ty quy mô vừa và lớn cần có sự tham gia của các nhà đầu tư chiến lược đủ điều kiện ở trong và ngoài nước. Phương thức này đã có nhiều thành công trong quá trình tư nhân hóa các nhà máy, xí nghiệp và doanh nghiệp trong các ngành sản xuất lốp, cao su, rượu bia, chất tẩy, dược phẩm, sản xuất đường, điện, ngân hàng...
Các chuyên gia về tư nhân hóa của Bộ Ngân khố sẽ trực tiếp tham gia thương lượng với các nhà đầu tư. Nội dung dung thương lượng bao gồm các vấn đề như: Số lượng cổ phần/vốn góp sẽ bán ra, giá cả, thời hạn thanh toán, cam kết đầu tư, các nghĩa vụ xã hội có liên quan và các vấn đề khác có khả năng phát sinh trong quá trình thực hiện... Nếu như có nhiều nhà đầu tư muốn tham gia, thì trước hết phải tiến hành các cuộc thương lượng sơ bộ, sau đó gút lại từ 2-3 người. Sau khi đáp ứng các điều kiện giao dịch cốt lõi nhất, “có lợi” nhất, sẽ tiếp tục thương lượng và chọn ra nhà đầu tư đáp ứng tối đa các điều kiện. Trong suốt quá trình thương lượng, Bộ trưởng Bộ Ngân khố và các chuyên gia tư nhân hóa không được tiết lộ các vấn đề liên quan đến thỏa thuận giao dịch có thể được ký kết. Mọi thông tin chỉ được công khai khi đã đạt được thỏa thuận với nhà đầu tư đủ điều kiện và ký kết hợp đồng.
c) Đa dạng hóa sở hữu DNNN thông qua hình thức “tăng vốn điều lệ”
Việc sửa đổi Luật Thương mại và Tư nhân hóa tháng 12/2002 đã hình thành nên một phương thức tư nhân hóa mới đối với công ty một chủ sở hữu nhà nước, trong đó, vốn điều lệ sẽ tăng lên về giá trị và thay đổi về cơ cấu sở hữu nhờ huy động thêm cổ phần/vốn góp từ các nhà đầu tư bên ngoài (giữ nguyên vốn nhà nước kết hợp với phát hành thêm cổ phần/vốn góp).
Việc tăng vốn điều lệ có thể thực hiện theo hai cách:
Một là, công khai mời chào các cá nhân và tổ chức bên ngoài góp vốn vào các công ty hoạt động hiệu quả và tình hình tài chính lành mạnh nhưng có nhu cầu đầu tư cho các dự án phát triển dài hạn.
Hai là, công ty đưa ra đề nghị góp vốn với nhà đầu tư đã được lựa chọn từ trước theo những điều kiện ràng buộc nhất định. Cách thức này thường áp dụng với các công ty hoạt động kinh doanh kém và trong tình trạng có thể phải bị giải thể, phá sản, cần bổ sung vốn từ các nhà đầu tư bên ngoài.
5. Ma-rốc
Bối cảnh kinh tế - xã hội và yêu cầu và quá trình tái cấu trúc DNNN ở Ma-rốc
Ngày 8/4/1988, vua Hassan II đã thông qua bài phát biểu của mình đưa ra kế hoạch tư nhân hóa – kế hoạch này đã đánh dấu bước khởi đầu của một cách tiếp cận mới về kinh doanh hiện đại. Trong kế hoạch ban đầu bao gồm 114 đối tượng được xếp vào danh sách tiến hành tư nhân hóa. Chương trình tư nhân hóa của Ma-rốc dựa trên các động cơ chính:
Thứ nhất, mang lại những lợi ích về tài chính trong ngắn hạn và giảm các khoản trợ cấp đáng kể của Nhà nước cho các DNNN yếu kém. Thông qua tư nhân hóa, Chính phủ sẽ nhận được nhiều lợi ích và tránh được những rủi ro do các DNNN hoạt động thua lỗ mang lại.
Thứ hai, tác động tích cực đến kinh tế - xã hội, giúp các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, giảm giá thành sản phẩm và tăng chất lượng dịch vụ. Mang lại sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp tư nhân hóa, từng bước giúp doanh nghiệp tư nhân hóa khẳng định vị thế của mình trên thị trường.
Thứ ba, thị trường tài chính phát triển, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và kích thích khu vực tư nhân phát triển.
Mục tiêu thúc đẩy tiến trình tư nhân hóa như sau:
- Một là, hiện đại hoá nền kinh tế quốc gia và mở cửa hội nhập quốc tế.
- Hai là, giảm gánh nặng ngân sách của Nhà nước đặc biệt là trợ cấp cho các doanh nghiệp công.
- Ba là, tăng cường năng lực cạnh tranh và năng suất của các thực thể tư nhân hóa.
- Bốn là, hỗ trợ khu vực tư nhân hóa bằng cách tăng cường vai trò của Quỹ Hassan II để phát triển đất nước.
- Năm là, đẩy mạnh việc tạo ra các cơ hội việc làm.
- Sáu là, thu hút đầu tư tư nhân hóa trong và ngoài nước.
Cùng với động cơ và mục tiêu như trên, quá trình tư nhân hóa được thực hiện trong một quá trình gồm ba bước: (i) quá trình trước chuyển đổi, (ii) quá trình chuyển đổi, và (iii) sau chuyển đổi.
i) Quá trình trước chuyển đổi: công ty kiểm toán đánh giá và xác định mức giá tối thiểu. Bên kiểm toán độc lập sẽ có trách nhiệm tiến hành nghiên cứu tình hình tài chính của công ty trong thời điểm hiện tại và đưa ra ý kiến về hoạt động kinh doanh trong tương lai của công ty. Thông tin này được chuyển đến cho bên mua để làm cơ sở đàm phán giá, đi đến thỏa thuận mua bán. Tùy thuộc vào vai trò và tầm quan trọng của công ty được chuyển đổi, công ty kiểm toán sẽ kết hợp với ngân hàng đầu tư để thực hiện đánh giá.
ii) Quá trình chuyển đổi: được thực hiện dựa trên các hình thức lựa chọn để chuyển nhượng: thông qua mời thầu, chỉ định thầu, hoặc thông qua thị trường tài chính. Mời thầu thường được cơ quan chức năng Ma-rốc lựa chọn trong trường hợp chuyển đổi một phần nhỏ cơ cấu vốn của công ty. Đây là phương pháp phổ biến nhất, chiếm tới 77% các hồ sơ do đảm bảo tính minh bạch và đạt được mức thỏa thuận tốt nhất. Phương pháp thứ hai là chỉ định thầu, thông thường được áp dụng cho 17% các hồ sơ của doanh nghiệp thực hiện tư nhân hóa. Trong trường hợp đấu thầu không thành công sẽ được chuyển sang chỉ định thầu. Phương pháp thứ ba là thông qua thị trường tài chính (chiếm khoảng 6% hồ sơ doanh nghiệp thực hiện tư nhân hóa). Có thể lựa chọn sở giao dịch chứng khoán Casablanca hoặc một thị trường chứng khoán nước ngoài hoặc kết hợp cả hai để thực hiện.
iii) Quá trình sau chuyển đổi: Người mua và người bán giao dịch với nhau trên cơ sở tôn trọng các kỹ thuật và quy định trong hợp đồng.
Tuy nhiên, phải đến năm 1993, chương trình tư nhân hóa mới được đưa ra, thông qua chương trình này, Chính phủ Ma-rốc hoàn thành các biện pháp đã được đưa ra vào thập kỷ 80. Các biện pháp gần đây bao gồm:
- Tự do hóa thương mại nước ngoài,
- Tự do hóa giá cả,
- Loại bỏ dần các khoản trợ cấp,
- Mở của nền kinh tế Ma-rốc đầu tư nước ngoài,
- Cải cách hệ thống thuế,
- Xúc tiến xuất khẩu,
- Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước.
Trên cơ sở các biện pháp đưa ra, các doanh nghiệp (trừ các khách sạn) được lựa chọn để tư nhân hóa trên cơ sở các tiêu chí sau:
- Kinh doanh trên thị trường tự do cạnh tranh, không có sự điều hành của Nhà nước.
- Tạo ra lợi nhuận trong thời điểm hiện tại hoặc có tiềm năng phát triển trong tương lai.
- Các doanh nghiệp hoạt động dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn.
Các mục tiêu của chương trình tư nhân hóa được đặt ra trong giai đoạn này bao gồm:
- Tối ưu hóa, hiện đại hóa nền kinh tế Ma-rốc.
- Giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước.
- Tham gia hội nhập kinh tế toàn cầu.
- Đối tượng và quản lý vốn trong DNNN quản lý tập trung hơn.
- Tạo cơ hội cho các doanh nhân có điều kiện phát huy năng lực điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp một cách độc lập.
Bên cạnh đó, Chính phủ Ma-rốc cũng đưa ra các mục tiêu cụ thể trong chương trình tư nhân hóa:
Thứ nhất, mục tiêu kinh tế: nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp tham gia tư nhân hóa; đẩy nhanh việc thành lập nền kinh tế mở cửa, hội nhập, các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước cùng hoạt động trên thị trường Ma-rốc.
Thứ hai, mục tiêu tài chính: giảm chi tiêu công; tăng nguồn thu cho ngân sách thông qua bán các công ty tham gia chương trình tư nhân hóa.
Thứ ba, mục tiêu chính sách: thúc đẩy sự tham gia của người lao động vào hoạt động của doanh nghiệp thông qua phần vốn góp.
Kết quả thực hiện
- Giảm các khoản trợ cấp của nhà nước cho doanh nghiệp.
- Hiện đại hóa phương tiện sản xuất của doanh nghiệp.
- Duy trì công việc cho người lao động tại các doanh nghiệp sau tư nhân hóa.
- Thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực then chốt như viễn thông, giao thông vận tải… nhằm cải thiện tình hình kinh tế Ma-rốc.
- Hội nhập kinh tế thế giới trong các lĩnh vực chiến lược với giá trị gia tăng mạnh mẽ, giúp mang lại lợi ích cho nền kinh tế Ma-rốc.
Chương trình tư nhân hóa của Ma-rốc tập trung vào việc tăng trưởng kinh tế, các ngành công nghiệp trọng yếu chuyển sang tư nhân hóa và giảm lãi suất thuế. Ma-rốc tăng cường đầu tư của DNNN vào nền kinh tế, chủ yếu tập trung vào các ngành trọng điểm như đường cao tốc, cấp nước, lắp ráp ô tô, công nghiệp điện tử, thuỷ hải sản,...
Cụ thể, lĩnh vực viễn thông: Tư nhân hóa công ty Viễn thông Ma-rốc có tác động quan trọng vào lĩnh vực viễn thông tại Ma-rốc, số lượng thuê bao gia tăng đáng kể.
Lĩnh vực tài chính: Tư nhân hóa ngân hàng BMCE đã đưa ngân hàng này g đầu trong lĩnh vực ngân hàng tại Ma-rốc: dòng tiền tăng cao hàng năm, tạo nhiều việc làm; có chỗ đứng trong thị trường quốc tế do cung cấp các dịch vụ mới ở nhiều thủ đô các nước Châu Âu cũng như nâng cao giá trị các quỹ đầu tư trên thị trường tài chính quốc tế.
Ngành công nghiệp xi măng: Sau tư nhân hóa, công ty Holcim đã thực sự phát triển, trở thành doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực sản xuất xi măng ở Ma-rốc. Cổ phiếu của công ty tăng giá cao.
Gần đây, Ma-rốc đang tiến hành thực hiện tự do hoá ngành vận tải thông qua việc cho phép chuyển DNNN thành công ty cổ phần, đồng thời Chính phủ cũng tiến hành xoá bỏ độc quyền trong một số lĩnh vực thông qua chương trình tư nhân hoá.
6. Bài học rút ra cho Việt Nam
Qua nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước về Quản lý và đầu tư vốn nhà nước, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong xây dựng mô hình quản lý và đầu tư vốn Nhà nước:
Thứ nhất, chức năng quản lý và đầu tư vốn nhà nước bao gồm quản lý và giám sát trực tiếp các doanh nghiệp Nhà nước; bảo toàn và phát triển vốn của Nhà nước thông qua đầu tư vào những ngành trọng điểm và có triển vọng; tái cấu trúc DNNN; giám sát đầu tư của DNNN, và hỗ trợ các DNNN trong việc tiếp cận vốn và nâng cao năng lực hoạt động.
Thứ hai, một số nước chức năng quản lý và giám sát do cơ quan quản lý thực hiện nhằm tách bạch vai trò chủ sở hữu và vai trò quản lý của Nhà nước (như SASAC của Trung Quốc hoặc hay Vụ Doanh nghiệp công của Ma-rốc).
Thứ ba, một số nước thành lập cơ quan kinh doanh (tổng công ty hoặc tập đoàn) vì mục tiêu lợi nhuận nhằm đảm bảo hiệu quả bảo tồn và phát triển vốn Nhà nước (như trong mô hình của Hung-ga-ri hay một số công ty đầu tư vốn và tài sản Nhà nước của Trung Quốc).
Minh Châu
email: [email protected], hotline: 086 508 6899