Kinh tế rừng gắn với hợp tác xã: Hướng đi cho vùng dân tộc, miền núi

14/12/2025, 14:22
chia sẻ bài viết

TCDN - Phát triển kinh tế rừng gắn với giao đất, giao rừng và tổ chức sản xuất theo mô hình hợp tác xã, kinh tế tập thể được xác định là một trong những chủ trương quan trọng nhằm tạo sinh kế ổn định, nâng cao đời sống cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Giao đất, giao rừng tạo nền tảng phát triển kinh tế rừng

Trong những năm qua, nhiều hợp tác xã liên quan đến rừng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã được thành lập như Hợp tác xã Bảo vệ rừng, trồng rừng Vòng Dính, Hợp tác xã Sơn Tây… Các hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ, khoanh nuôi, tái sinh rừng (rừng phòng hộ, rừng sản xuất), trồng rừng (gỗ, cây công nghiệp như chè), và khai thác/chế biến sản phẩm gỗ, thường liên kết với cộng đồng địa phương (người dân tộc thiểu số) để phát triển kinh tế bền vững, tạo sinh kế và đảm bảo an sinh xã hội.

Tuy nhiên, còn nhiều nơi, nhiều khu vực, việc phát triển kinh tế rừng giúp đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Tại cuộc họp của Thường trực Hội đồng Dân tộc về dự thảo Báo cáo kết quả khảo sát “Tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về giao đất, giao rừng, bảo vệ, phát triển rừng gắn với tạo sinh kế ổn định, nâng cao đời sống cộng đồng dân cư và hộ gia đình ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2019 - 2023” đã cho thấy thực tế trên.

Theo Báo cáo khảo sát, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là khu vực có vị trí chiến lược đặc biệt, chiếm tới 65,5% tổng diện tích tự nhiên của cả nước; trong đó, đất lâm nghiệp chiếm 78,3% và đất rừng chiếm 78,6%. Đây là nơi sinh sống của hơn 83% tổng số dân tộc thiểu số cả nước, song cũng là khu vực tập trung tới 70,6% số hộ nghèo và cận nghèo, với tỷ lệ nghèo cao gấp 2,2 lần mức bình quân chung.

(Ảnh minh họa)

(Ảnh minh họa)

Giai đoạn 2019 - 2023, diện tích rừng có chủ quản lý ngày càng được mở rộng, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, bảo vệ và phát triển rừng bền vững. Phần lớn diện tích rừng và đất lâm nghiệp đã được giao cho các chủ thể sử dụng, bao gồm ban quản lý rừng, tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng dân cư. Đáng chú ý, nhiều diện tích đất lâm nghiệp do doanh nghiệp nhà nước quản lý trước đây đã được chuyển sang hình thức thuê đất theo đúng quy định pháp luật.

Thực tiễn cho thấy, giao rừng đã tạo chuyển biến rõ nét trong nhận thức và hành động của người dân. Khi rừng “có chủ”, người dân yên tâm đầu tư, gắn bó với rừng, trách nhiệm bảo vệ rừng được nâng cao, tình trạng phá rừng, lấn chiếm đất rừng giảm đáng kể.

Tuy nhiên, quá trình triển khai chính sách cũng bộc lộ không ít khó khăn, bất cập. Một số quy định pháp lý đã không còn phù hợp với thực tiễn. Chẳng hạn, chính sách hỗ trợ trồng rừng theo Nghị định 75/2015/NĐ-CP với quy định “chỉ hỗ trợ một lần cho chu kỳ đầu” không còn đáp ứng yêu cầu thực tế, khi nhiều diện tích rừng đã được người dân trồng qua nhiều chu kỳ. Điều này khiến nhiều hộ gia đình và doanh nghiệp khó tiếp cận chính sách hỗ trợ, như tại Tuyên Quang, Lào Cai.

Bên cạnh đó, chính sách trợ cấp gạo cho hộ nghèo trồng rừng thay thế nương rẫy chưa làm rõ tiêu chí “hộ nghèo chưa tự túc lương thực”, gây lúng túng trong tổ chức thực hiện. Sự chưa đồng bộ giữa Luật Lâm nghiệp 2017 và Luật Đất đai 2024 trong quy định về giao rừng cho cộng đồng cũng dẫn tới tình trạng phải thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp tại một số địa phương.

Ngoài ra, lực lượng chuyên trách lâm nghiệp ở cơ sở còn thiếu, năng lực cán bộ chưa đồng đều; công tác tham mưu, quản lý địa bàn còn hạn chế. Ý thức, trách nhiệm bảo vệ rừng của một bộ phận người dân và chủ rừng chưa cao, ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi chính sách.

Tháo gỡ “điểm nghẽn” phát huy vai trò hợp tác xã, kinh tế tập thể

Một “điểm nghẽn” lớn được Ngân hàng Chính sách xã hội chỉ ra là việc thiếu Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, do số liệu giữa các ngành, các cấp chưa thống nhất, nhiều hộ đã được giao đất, giao rừng nhưng chưa hoàn thiện hồ sơ pháp lý. Đây là rào cản lớn khiến người dân khó tiếp cận chính sách hỗ trợ và nguồn vốn tín dụng.

Để tháo gỡ, Ngân hàng Chính sách xã hội kiến nghị cho phép sử dụng biên bản giao đất, giao rừng hoặc xác nhận của UBND cấp xã làm căn cứ vay vốn đối với các hộ chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đồng thời, đề xuất xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung giữa ngành nông nghiệp và tài nguyên môi trường, nhằm xác định đúng đối tượng thụ hưởng, phục vụ quản lý hiệu quả nguồn vốn của các chương trình mục tiêu quốc gia.

Về lâu dài, cần ưu tiên bố trí đủ nguồn vốn tín dụng chính sách từ ngân sách nhà nước trong các kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm. Đồng thời, mở rộng chính sách hỗ trợ sinh kế gắn với rừng cho hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo; đa dạng hóa mô hình sản xuất như VACR (Vườn - Ao - Chuồng - Rừng), du lịch sinh thái, phát triển dược liệu, gắn phát triển rừng với giảm nghèo bền vững.

Bên cạnh các giải pháp về đất đai, tín dụng, để phát triển kinh tế rừng cần hỗ trợ, việc phát triển hợp tác xã, tổ hợp tác và các mô hình kinh tế tập nhằm nâng cao hiệu quả sinh kế cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Thông qua các hợp tác xã, các hộ gia đình, cộng đồng dân cư được liên kết trong quản lý, bảo vệ và khai thác rừng bền vững hơn. Đồng thời, họ sẽ có điều kiện tiếp cận tốt hơn với vốn tín dụng, khoa học – kỹ thuật, thị trường tiêu thụ và các chương trình hỗ trợ của nhà nước.

Thực tế cho thấy, tại nhiều địa phương vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, các hợp tác xã lâm nghiệp đã từng bước tham gia sâu vào phát triển kinh tế rừng theo hướng bền vững. Có thể kể đến Hợp tác xã Lâm nghiệp Trường Sơn (Quảng Bình), Hợp tác xã Lâm nghiệp Bảo Thắng (Lào Cai) hay Hợp tác xã Nông – Lâm nghiệp Cao Sơn (Phú Thọ)…, với các mô hình trồng rừng gỗ lớn, phát triển dược liệu dưới tán rừng, gắn quản lý, bảo vệ rừng với tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị. Thông qua mô hình hợp tác xã, các hộ thành viên được liên kết trong sản xuất, tiếp cận kỹ thuật, thị trường và chính sách hỗ trợ, qua đó góp phần nâng cao giá trị gia tăng từ rừng và tạo sinh kế ổn định cho người dân.

Để kinh tế tập thể thực sự trở thành “bệ đỡ” cho phát triển kinh tế rừng, cần có chính sách đồng bộ hỗ trợ hợp tác xã về giao đất, giao rừng ổn định lâu dài; ưu tiên tiếp cận tín dụng chính sách, chi trả dịch vụ môi trường rừng. Cùng với đó, tăng cường vai trò của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và Liên minh hợp tác xã các địa phương trong tư vấn, đào tạo, kết nối thị trường cho hợp tác xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Bình An
Bạn đang đọc bài viết Kinh tế rừng gắn với hợp tác xã: Hướng đi cho vùng dân tộc, miền núi tại chuyên mục Thị trường của Tạp chí Tài chính doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác:

email: [email protected], hotline: 086 508 6899

Tin liên quan

Sức sống mới ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi Nghệ An
Sự linh hoạt trong sử dụng nguồn vốn Chương trình xây dựng nông thôn mới vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi tại các xã vùng cao thuộc tỉnh Nghệ An đã tạo ra những bước đột phá trong xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu, mở ra cơ hội phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của người dân.

x