Mức giảm trừ gia cảnh: Đề xuất dựa vào CPI và các chỉ số kinh tế - xã hội

11/08/2025, 10:47
báo nói -

TCDN - Chuyên gia Nguyễn Văn Được đề xuất dùng CPI và các chỉ số kinh tế - xã hội như GDP, mức sống cơ sở… thay vì áp dụng theo vùng hay mức lương để tính mức giảm trừ gia cảnh, vừa phù hợp thực tế, vừa tạo thuận lợi cho người lao động ở cả thành thị và nông thôn.

Dự thảo Luật Thuế TNCN bổ sung giảm trừ chi phí y tế, giáo dục cho người nộp thuế và người phụ thuộc, đồng thời điều chỉnh giảm trừ gia cảnh. Ông Nguyễn Văn Được, Ủy ban BCH Hội Tư vấn Thuế Việt Nam, Tổng giám đốc Công ty Kế toán và Tư vấn Thuế Trọng Tín đã chia sẻ với Tạp chí Tài chính doanh nghiệp về nội dung này.

Mở rộng khoản giảm trừ cần giới hạn và rõ ràng

Lần đầu tiên trong dự thảo Luật Thuế TNCN đã đưa chi phí giáo dục, y tế vào các khoản được trừ khi tính thuế TNCN, ông đánh giá như thế nào về đề xuất này?

Tôi cho rằng việc đưa chi phí cho y tế, giáo dục vào danh mục các khoản được trừ cho người nộp thuế khi tính thuế TNCN là một bước tiến đáng ghi nhận. Điều này thể hiện tinh thần cầu thị của Bộ Tài chính cũng như cơ quan soạn thảo, khi tiếp thu các ý kiến đóng góp từ cộng đồng doanh nghiệp và người nộp thuế - những kiến nghị đã được đề xuất trong nhiều năm qua.

Ông Nguyễn Văn Được.

Ông Nguyễn Văn Được.

Các khoản chi phí này phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay. Bởi trên thực tế, người dân vẫn phải bỏ ra các khoản chi phí cho y tế, giáo dục và việc được trừ những chi phí này là hợp lý.

Trên thế giới, nhiều nước đã cho phép trừ các khoản chi phí trên khi tính thuế giúp giảm áp lực cho người nộp thuế. Khi đó, thu nhập khả dụng của người nộp thuế sẽ tăng lên, giúp họ có điều kiện tiêu dùng hoặc đầu tư nhiều hơn.

Chính sách này có thể khiến thu ngân sách nhà nước giảm đi nhưng xét về trung và dài hạn cũng như trên bình diện tổng thể của nền kinh tế thì vẫn mang lại nhiều lợi ích. Bởi lẽ, nhà nước hoàn toàn có thể thu được nhiều hơn trong tương lai nhờ sự gia tăng tiêu dùng, đầu tư và tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là khi giả định rằng các hoạt động sản xuất, kinh doanh sẽ mở rộng, doanh nghiệp phát triển thêm và người dân có thu nhập khả dụng cao hơn.

Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải xác định rõ các loại chi phí giáo dục, y tế như thế nào sẽ được tính vào khoản được trừ, ai là đối tượng được hưởng và mức hưởng ra sao. Đồng thời, Chính phủ cần sớm ban hành hướng dẫn chi tiết để chính sách đi vào thực tiễn một cách hiệu quả.

Việc quy định cụ thể, minh bạch là rất quan trọng nhằm phát huy tối đa hiệu quả của chính sách, đồng thời hạn chế tình trạng lạm dụng, trục lợi hay lách luật, tránh làm mất đi ý nghĩa nhân văn vốn có mà nhà nước muốn hướng tới.

Theo ông, việc mở rộng các khoản được trừ để phù hợp với thực tiễn cuộc sống có cần thiết và khả thi không?

Vừa qua, Hội Tư vấn và Đại lý Thuế Tp.HCM đã triển khai chương trình lấy ý kiến góp ý về Luật Thuế TNCN. Trong quá trình đó, có rất nhiều chuyên gia, nhà khoa học cũng như những người đang hành nghề trong lĩnh vực thuế cũng đề xuất cần mở rộng các đối tượng và khoản được trừ khi tính thuế.

Cụ thể, có hai vấn đề lớn được đề cập. Thứ nhất là về đối tượng người nộp thuế và người phụ thuộc được giảm trừ. Thứ hai là về các khoản chi phí được trừ.

Trong đó, cần nhấn mạnh rằng các khoản chi phí đầu tư cho con người như chi phí chăm sóc người già, chi phí y tế, chi phí giáo dục và đào tạo đều cần được xem xét bổ sung. Đây là những vấn đề thực tiễn, sát với đời sống và cần được tiếp tục nghiên cứu để bổ sung vào Luật, nhằm giảm gánh nặng thuế một cách hợp lý, bảo đảm công bằng và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay.

Trong dự thảo hiện nay mới chỉ đề cập đến các khoản chi cho giáo dục, y tế áp dụng cho chính người nộp thuế và những người thân cận theo quy định, tức là những người phụ thuộc như cha mẹ, con cái hoặc vợ/chồng. Tuy nhiên, trong thực tiễn, có nhiều trường hợp người nộp thuế còn phải thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng đối với các đối tượng khác như ông bà, cô, dì, chú, bác, anh chị em ruột, cháu...

Đơn cử như trường hợp người nộp thuế nuôi cháu ruột khi cha mẹ cháu mất hoặc không có khả năng chăm sóc. Đứa trẻ này không phải là con ruột, con nuôi hợp pháp, nhưng trong thực tế, người nộp thuế vẫn đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng, có đăng ký tạm trú, tạm vắng hoặc có xác nhận của chính quyền địa phương. Do vậy, những khoản chi phí cho việc nuôi dưỡng này cũng cần được xem xét để đưa vào diện giảm trừ thuế, nhằm bảo đảm sự công bằng, nhân văn và phản ánh đúng trách nhiệm thực tế mà người dân đang gánh vác.

Khi xét đến các đối tượng được giảm trừ thuế, chúng ta không nên chỉ giới hạn trong phạm vi bản thân người nộp thuế, vợ/chồng và con cái. Mà cần phải mở rộng ra các trường hợp khác như ông bà, hoặc những người mà người nộp thuế thực sự có trách nhiệm nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật.

Bên cạnh đó, tôi cho rằng cần phải có sự tính toán hợp lý đối với chi phí giáo dục và đào tạo, chỉ nên tính giảm trừ cho bản thân người nộp thuế và con của người nộp thuế hoặc cháu trong trường hợp người nộp thuế có trách nhiệm nuôi dưỡng hợp pháp.

Không nên áp dụng giảm trừ chi phí giáo dục, đào tạo đối với vợ/chồng, cha mẹ, ông bà hay những người thân khác sống cùng vì việc này sẽ mở rộng quá mức phạm vi chính sách, dẫn đến khó quản lý và có thể gây ra những hệ lụy không mong muốn trong việc áp dụng thực tế.

Còn đối với chi phí y tế, có thể mở rộng cho tất cả các đối tượng mà người nộp thuế có nghĩa vụ nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật. Việc mở rộng này sẽ phù hợp với thực tiễn và mang tính nhân văn cao.

Tuy nhiên, Chính phủ cần có quy định cụ thể về mức trần giảm trừ ngay sau khi Luật có hiệu lực. Nghĩa là cần giới hạn số tiền chi phí y tế được trừ, có thể căn cứ theo mức viện phí trung bình tại các cơ sở y tế công lập, hoặc một tỷ lệ tối đa tính theo phần trăm thu nhập của người nộp thuế.

Việc quy định trần chi phí như vậy sẽ giúp đảm bảo cân bằng giữa hai mục tiêu: thể hiện tính nhân văn của chính sách và duy trì nghĩa vụ thuế của công dân. Điều này không chỉ góp phần giáo dục ý thức đóng góp cho xã hội mà còn giúp nhà nước có nguồn lực để thực hiện chức năng phân phối lại thu nhập một cách hiệu quả.

Ngoài ra, nên đưa chi phí thuê nhà vào nhóm khoản được giảm trừ khi tính thuế TNCN. Đây là khoản chi đáng kể đối với người lao động, nhất là tại các đô thị lớn. Nếu được tính giảm trừ sẽ góp phần giảm gánh nặng tài chính và phản ánh sát thực hơn mức sống hiện nay. Việc áp dụng này tương tự như các khoản chi điện thoại, ăn ca, trang phục… được thực hiện ổn định trong pháp luật thuế TNCN hiện hành.

Dùng CPI và chỉ số kinh tế, xã hội để tính mức giảm trừ gia cảnh

Nhiều ý kiến cho rằng mức giảm trừ gia cảnh nên tính theo vùng miền hoặc mức lương thay vì theo 2 phương án Bộ Tài chính đề xuất trong dự thảo Luật Thuế TNCN. Ông đánh giá sao về đề xuất này?

Tôi cho rằng chúng ta không nên xây dựng mức giảm trừ gia cảnh theo từng vùng miền hay địa phương, cũng như không nên lấy chỉ số liên quan đến mức lương cơ sở làm căn cứ.

(Ảnh minh họa)

(Ảnh minh họa)

Mức lương tối thiểu vùng hay tiền lương cũng như mức thu nhập bình quân GDP không nên dùng làm căn cứ để điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh. Bởi vì khi có sự thay đổi về thu nhập hoặc tiền lương sẽ kéo theo sự thay đổi lớn về giá cả, tức là tỷ lệ thay đổi giữa các yếu tố này không bao giờ đồng nhất hay tự động cân bằng với nhau.

Ví dụ, khi thu nhập thay đổi 10% hoặc tiền lương thay đổi 1% thì giá cả có thể tăng từ 9% đến 15%, không theo tỷ lệ cố định. Nếu chúng ta chỉ lấy sự thay đổi về thu nhập để điều chỉnh mức giảm trừ thì sẽ không theo kịp với mức lạm phát thực tế, dẫn đến người nộp thuế bị thiệt thòi hoặc mức điều chỉnh không đủ để bù đắp chi phí sinh hoạt.

Vấn đề thứ hai, khi chúng ta điều chỉnh mức lương theo vùng có vẻ phù hợp. Tuy nhiên, thuế TNCN ở Việt Nam được quyết toán theo năm và tính trên thu nhập toàn cầu, nghĩa là người nộp thuế phải kê khai thu nhập ở mọi nơi trên lãnh thổ Việt Nam cũng như ở nước ngoài. Do đó, nếu chúng ta áp dụng mức giảm trừ gia cảnh theo từng vùng khác nhau sẽ dẫn đến khó khăn trong việc thực hiện chính sách, gây phức tạp cho hệ thống thuế, tăng thêm thủ tục hành chính và tạo ra khả năng lạm dụng giữa các khu vực với nhau.

Ví dụ, tôi hiện đang sống và chi tiêu ở Tp.HCM, nhưng tôi lại phải kê khai thu nhập ở nơi khác. Có những trường hợp tôi có thu nhập ở nhiều nơi. Vậy, với những người có thu nhập phân tán như vậy sẽ tính thuế thế nào?

Chẳng hạn, tổng thu nhập của tôi có thể gồm 70% thu nhập ở Tp.HCM và 30% thu nhập ở nơi khác. Về nguyên tắc, tôi phải phân bổ thu nhập theo từng nguồn và địa điểm tương ứng. Tuy nhiên, việc này rất phức tạp do giá cả và điều kiện sống ở mỗi nơi khác nhau.

Chính vì vậy, tôi cho rằng vẫn nên lấy chỉ số CPI để điều chỉnh, đồng thời căn cứ thêm một số chỉ số kinh tế - xã hội như GDP, mức sống cơ sở để xác định mức trần giá cả cao nhất. Ngoài ra, nên lấy mức giá cả ở đô thị và thành phố làm cơ sở để áp dụng cho người lao động ở thành phố, đồng thời tạo thuận lợi cho người lao động ở vùng nông thôn. Hy vọng rằng người lao động ở nông thôn sẽ được hưởng một sự hỗ trợ nhất định, tạo động lực cho họ phát triển. Việc tạo động lực này rất quan trọng để thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị, đây cũng là một chủ trương chung của Đảng và nhà nước.

Tôi cho rằng, nếu thiết kế được chính sách giảm trừ gia cảnh dựa trên các chỉ số như vậy, chính sách sẽ phát huy được tính linh hoạt, đồng thời đảm bảo sự công bằng, bình đẳng và hỗ trợ tốt nhất trong thực tiễn.

Xin cảm ơn ông!

Thanh Phương
Bạn đang đọc bài viết Mức giảm trừ gia cảnh: Đề xuất dựa vào CPI và các chỉ số kinh tế - xã hội tại chuyên mục Thuế & cuộc sống của Tạp chí Tài chính doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác:

email: [email protected], hotline: 086 508 6899

Tin liên quan

Bộ Tài chính đề xuất nâng mức giảm trừ gia cảnh lên 15,5 triệu đồng/tháng
Trong Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh, Bộ Tài chính đề xuất 2 phương án nâng mức giảm trừ, trong đó phương án ưu tiên là tăng mức giảm trừ cho bản thân người nộp thuế lên 15,5 triệu đồng/tháng và cho mỗi người phụ thuộc lên 6,2 triệu đồng/tháng, áp dụng từ năm 2026.
Đề xuất bổ sung tiêu chí điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh, rút gọn bậc thuế, sửa đổi biểu thuế
Bà Vũ Thu Hà đề xuất bổ sung thêm các yếu tố như lương tối thiểu, mức sống từng vùng làm căn cứ xác định mức giảm trừ gia cảnh thuế TNCN, đồng thời kiến nghị rút gọn bậc thuế và điều chỉnh lại biểu thuế lũy tiến để phù hợp với thực tế và đảm bảo công bằng cho người nộp thuế.

x