Nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM trong cách mạng công nghiệp 4.0

25/03/2024, 21:29
báo nói -

TCDN - Bài viết phân tích các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại, năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) và đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng thương mại nói chung và Sacombank nói riêng.

2-1

TÓM TẮT:

Việt Nam đang có tổng cộng 118 tổ chức tín dụng thành viên, chia làm 4 nhóm: Ngân hàng thương mại Nhà nước, Ngân hàng Thương mại cổ phần, Ngân hàng liên doanh và Ngân hàng nước ngoài; Công ty tài chính; Ngân hàng hợp tác xã (quỹ tín dụng nhân dân), trong đó có 7 ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước và 28 ngân hàng thương mại cổ phần… Sự cạnh tranh ngày càng trở nên mạnh mẽ và quyết liệt trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, đòi hỏi hệ thống ngân hàng Việt Nam phải cải tổ cơ cấu một cách mạnh mẽ để trở thành hệ thống ngân hàng đa dạng về hình thức, có khả năng cạnh tranh cao, hoạt động an toàn và hiệu quả, huy động tốt các nguồn vốn trong xã hội và mở rộng đầu tư đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước.

Bài viết phân tích các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại, năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) và đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng thương mại nói chung và Sacombank nói riêng.

1. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại

Năng lực cạnh tranh của hệ thống NHTM là sự tổng hợp tất cả hả năng của ngân hàng đáp ứng được nhu cầu hách hàng về việc cung cấp các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng có chất lượng cao, đa dạng và phong phú, tiện ích và thuận lợi, có tính độc đáo so với các sản phẩm, dịch vụ cùng loại trên thị trường, tạo ra được lợi thế cạnh tranh, làm tăng lợi nhuận hàng năm của các ngân hàng, tạo được uy tín, thương hiệu và vị thế cao trên thị trường, có hả năng chống đỡ và vượt qua những biến động bất lợi của môi trường inh doanh. “Năng lực cạnh tranh của NHTM là hả năng ngân hàng tạo ra được lợi thế cạnh tranh, có năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn hơn, tạo ra lợi nhuận cao và phát triển bền vững”.

Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại

Theo hệ thống đánh giá ngân hàng CAMELS và lý thuyết về năng lực cạnh tranh của Michael Porter cho thấy việc đánh giá năng lực cạnh tranh của một ngành, mà cụ thể ở đây là đánh giá hệ thống NHTM không chỉ bao gồm việc tập trung nghiên cứu vào những nguồn lực nội tại và hiện có của các ngân hàng, vào chỉ tiêu hoạt động, vị thế, uy tín của ngân hàng đó, mà còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác như: đối thủ cạnh tranh, sản phẩm thay thế, khả năng thích ứng của ngân hàng trước những thay đổi của thị trường… Như vậy, hệ thống chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng sẽ bao gồm hai bộ phận: Các chỉ tiêu phản ánh nguồn lực và các chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh của NHTM

1.1. Năng lực tài chính

Năng lực tài chính của NHTM được thể hiện qua các yếu tố sau:

Vốn chủ sở hữu

Vốn Chủ sở hữu của NHTM là toàn bộ nguồn vốn thuộc sở hữu của chủ ngân hàng, của các thành viên trong đối tác liên doanh hoặc các cổ đông trong ngân hàng, kinh phí quản lý do các đơn vị trực thuộc nộp lên.

Vốn chủ sở hữu gồm hai bộ phận: Vốn của chủ sở hữu ban đầu và vốn của chủ sở hữu hình thành trong trong quá trình hoạt động. Vốn chủ hữu ban đầu đối với các NHTM cổ phần chính là vốn do cổ đông góp thông qua việc mua cổ phần hoặc cổ phiếu bao gồm cổ phần thường và cổ phần ưu đãi. Mức vốn này phải đảm bảo tối thiểu bằng vốn pháp định. Vốn chủ sở hữu hình thành trong quá trình hoạt động (vốn chủ sở hữu bổ sung) do cổ phần phát hành thêm hoặc do ngân sách Nhà nước cấp bổ sung trong quá trình hoạt động, do chuyển 1 phần lợi nhuận tích lũy, các quỹ dự trữ, quỹ đầu tư, bổ sung vốn điều lệ, phát hành giấy nợ dài hạn.

Quy mô và khả năng huy động vốn

Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Vì vậy bảng cân đối tài sản của NHTM có những đặc thù riêng khác với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác. Điểm đặc thù riêng này là NHTM thường quản lí một lượng tài sản lớn hơn vốn của chúng rất nhiều và tài sản của NHTM phần lớn là tài sản tài chính. Tài sản có bao gồm tài sản sinh lời và tài sản không sinh lời, phản ánh quá trình sử dụng vốn vào các mục đích đảm bảo an toàn và tìm kiếm lợi nhuận của NHTM. Quy mô, cơ cấu và chất lượng tài sản có sẽ quyết định đến sự tồn tại và phát triển của NHTM. Khi nói đến tăng trưởng của tổng tài sản là nói đến quy mô của hoạt động tín dụng và hoạt động đầu tư, Chất lượng tài sản là một chỉ tiêu tổng hợp nói lên khả năng bền vững về tài chính, năng lực quản lý của một NHTM. Đánh giá quy mô, chất lượng tài sản được thể hiện qua các chỉ tiêu: tốc độ tăng trưởng của tổng tài sản, tính đa dạng hóa trong tài sản, tổng dư nợ, tốc độ tăng trưởng của dư nợ, tỷ trọng dư nợ trên tổng tài sản có, tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ lệ nợ xấu, tình hình đảm bảo tiền vay… Bên cạnh hoạt động tín dụng, hoạt động đầu tư cũng góp phần tăng quy mô tổng tài sản của ngân hàng. Các khoản đầu tư trên bảng cân đối kế toán gồm các khoản mục: chứng khoán kinh doanh, chứng khoán đầu tư và góp vốn đầu tư dài hạn.

Hoạt động đầu tư được đánh giá qua các chỉ tiêu như: quy mô, tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ dự phòng giảm giá chứng khoán… Tài sản Nợ của ngân hàng là nghĩa vụ tiền tệ của ngân hàng đó với người gửi tiền và các chủ nợ của ngân hàng tính đến một thời điểm nhất định. Một khoản mục quan trọng của NHTM thể hiện bên tài sản Nợ của NHTM là mục Vốn chủ sở hữu. Tài sản nợ phản ánh tất cả những nguồn hình thanh của tài sản Có, không phân biệt các nghĩa vụ tiền tệ của ngân hàng với các chủ nợ với nghĩa vụ của ngân hàng với các chủ sở hữu.

Ngoài vốn chủ sở hữu (chỉ chiếm một tỷ lệ nhất định, thông thường là 10% tổng tài sản), tài sản nợ được hình thành từ hoạt động huy động gửi tiền và vay vốn của ngân hàng trên các thị trường tài chính ở thời kì trước đó. Khi quy mô huy động vốn tăng sẽ làm tăng quy mô tổng tài sản, chất lượng nguồn vốn được thể hiện ở tổng nguồn vốn mà ngân hàng huy động được với chi phí thấp, tính ổn định cao và có cơ cấu hợp lý, đáp ứng được yêu cầu về cho vay, đầu tư. Nâng cao chất lượng nguồn vốn có thể hiểu là các hoạt động liên quan đến việc cung cấp cho các nhu cầu về tín dụng, đầu tư, thanh khoản với các nguồn vốn phù hợp về kỳ hạn và lãi suất. Điều này đòi hỏi các ngân hàng phải cân nhắc rủi ro, sự ổn định của nguồn vốn để có thể đầu tư các dự án có thời gian dài cũng như sự chênh lệch giữa chi phí vay vốn với mức lợi nhuận có thể thu được khi vốn đầu tư vào tín dụng và giấy tờ có giá…

Các chỉ tiêu để đánh giá quy mô, chất lượng nguồn vốn như: tổng nguồn vốn, tốc độ tăng trưởng nguồn vốn, cơ cấu nguồn vốn…. Muốn tăng trưởng tổng tài sản một cách bền vững cần nghiên cứu mối liên hệ tương quan giữa cơ cấu tài sản và nguồn vốn. Qua mối tương quan này sẽ đánh giá được tính tối ưu trong cơ cấu tài sản-nguồn vốn, khả năng phản ứng của ngân hàng trước những hiện tượng bất thường của môi trường kinh doanh và đáp ứng yêu cầu rút tiền của công chúng. Sự phối hợp hiệu quả sẽ giúp ngân hàng tối đa hóa thu nhập đồng thời kiểm soát chặt chẽ các rủi ro.

Khả năng sinh lời

Khả năng sinh lời phản ánh kết quả hoạt động, đánh giá hiệu quả kinh doanh và mức độ phát triển của một NHTM. Đứng trên góc độ từ NHTM, thì một NHTM có khả năng sinh lời cao sẽ có khả năng tích lũy cao, sẽ có điều kiện trang bị, đầu tư công nghệ, từ đó nâng cao chất lượng dịch vụ thu hút khác hàng, mặt khác đứng trên góc độ nhà đầu tư người gửi tiền sẽ quyết định giao dịch khi nhìn thấy NHTM đó có thể an toàn do có thể bù đắp rủi ro, từ đó tạo điều kiện tăng trưởng cho tổng tài sản. Theo thông lệ quốc tế người ta thường đo lường khả năng sinh lời của NHTM bằng các chỉ tiêu định lượng: Giá trị tuyệt đối của lợi nhuận sau thuế, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận, cơ cấu của lợi nhuận (cho biết lợi nhuận được hình thành từ nguồn nào) và đặc biệt là các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn tự có (ROE), lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA), thu nhập lãi cận biên (NIM)…

Tỷ lệ lợi nhuận/ Tổng tài sản có (ROA)

ROA = Lợi nhuận sau thuế/ Tổng tài sản x 100% (1)

Tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) thể hiện khả năng của đơn vị trong việc sử dụng các tài sản của mình để tạo ra lợi nhuận. ROA càng cao càng thể hiện khả năng quản lý của Ban quản trị ngân hàng trong việc sử dụng tài sản của ngân hàng vào các hoạt động có khả năng tạo ra lợi nhuận. Tuy nhiên nếu ROA quá cao không phải là tín hiệu tốt đối với các ngân hàng vì trong tình huống đó, ngân hàng đang rơi vào tình trạng rủi ro cao do lợi nhuận kì vọng và rủi ro có mối quan hệ thuận chiều.

Cụ thể, chỉ số ROA của ngành ngân hàng nếu nằm ở ngưỡng:

+Nhỏ hơn 0,5%: tạo lợi nhuận kém, thường chỉ các ngân hàng quốc doanh, các ngân hàng vay nợ nhiều trong phần nợ trên bản cân đối, hoặc trích lập dự phòng nhiều khi cho vay mới đạt mức ROA thấp như thế này.

+Từ 0.5% - 1%: hầu hết các thị trường ngân hàng đều nằm ở nhóm này.

+Từ 1% - 2%: lợi nhuận khỏe mạnh.

+Từ 2% - 2,5%: lợi nhuận tốt, nhưng cần lưu ý đến những mô hình bất thường trong hoạt động (do độc quyền ngân hàng), hoặc ngân hàng tham gia vào các nghiệp vụ cho lợi nhuận cao, đi kèm với rủi ro cao.

+Lớn hơn 2,5%: bất thường, cần thận trọng và xem xét kĩ bởi các hoạt động rủi ro của ngân hàng.

Tỷ lệ lợi nhuận/ Vốn chủ sở hữu (ROE)

Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu thể hiện một đồng vốn chủ sở hữu của ngân hàng sẽ mang về bao nhiêu đồng lợi nhuận trong một thời gian nhất định (thường là 1 năm).

ROE = Lợi nhuận sau thuế/ Vốn chủ sở hữu x 100% (2)

Nói các khác, ROE đánh giá lợi ích mà cổ đông (chủ sở hữu ngân hàng) có được từ nguồn vốn bỏ ra. Tỷ lệ này càng cao thể hiện việc sử dụng vốn của ngân hàng trong đầu tư, cho vay càng hiệu quả. Các nhà quản trị ngân hàng luôn muốn tăng ROE để thỏa mãn cổ đông thông qua nhiều biện pháp như: kiểm soát rủi ro có hiệu quả, hạn chế khoản vay xấu…

Đối với ngành ngân hàng, chỉ số ROE nằm ở ngưỡng:

- Nhỏ hơn 10%: khả năng tạo lợi nhuận hiệu quả của ngân hàng đó kém.

- Từ 10%-20%: ngân hàng hoạt động cho lợi nhuận bình thường.

- Lớn hơn 20%: ngân hàng tạo ra lợi nhuận cao khi sử dụng vốn chủ sở hữu.

Các chỉ tiêu ROA, ROE thường được các nhà quản trị, các nhà đầu tư quan tâm, sử dụng khi đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng, chúng thể hiện khả năng, thời hạn thu hồi vốn đầu tư của chủ sở hữu. Hiệu quả sử dụng vốn và tài sản của ngân hàng càng cao là cơ sở để ngân hàng tăng quy mô vốn cũng như năng lực tài chính của mình.

Khả năng đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh

Chất lượng hoạt động kinh doanh và năng lực tài chính của một NHTM được thể hiện ở chất lượng tài sản có sinh lời, khả năng quản lý và kiểm soát được các rủi ro trong hoạt động tín dụng, chất lượng nguồn vốn, mà còn được biểu hiện thông qua khả năng đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng đó, cụ thể như:

- Đảm bảo hả năng thanh hoản: Khả năng thanh khoản của một ngân hàng là khả năng sẵn sàng chi trả, thanh toán cho khách hàng và bù đắp những tổn thất khi xảy ra rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Đây là một tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá chất lượng và sự an toàn trong quá trình hoạt động của một ngân hàng. Rủi ro thanh khoản xảy ra khi NHTM không đáp ứng được nhu cầu cho vay và đầu tư hoặc không đáp ứng được khả năng thanh toán của khách hàng. Rủi ro này xuất phát từ chênh lệch kỳ hạn huy động vốn và sử dụng vốn, dùng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn, không cân đối được kỳ hạn thu hồi vốn đầu tư với kỳ hạn phải thanh toán, trong khi nhu cầu thanh toán của khách hàng là không thể trì hoãn được. Nếu NHTM lâm vào tình trạng này mà không xử lý được kịp thời thì sẽ rất nguy hiểm, làm mất lòng tin khác hàng, dẫn đến rút tiền ồ ạt làm tình trạng mất thanh khoản của ngân hàng càng trầm trọng hơn, có thể làm phá sản ngân hàng. Khả năng thanh toán của một ngân hàng được thể hiện qua các chỉ tiêu định lượng như: khả năng thanh toán tức thì, khả năng thanh toán nhanh, chỉ tiêu thanh toán.. theo thông lệ quốc tế nếu như chỉ tiêu thanh khoản đạt khoảng 30% được coi là an toàn, đảm bảo ngân hàng có thể đáp ứng được nhu cầu rút tiền và thanh toán tức thì với số lượng lớn.

- Khả năng bù đắp khi xảy ra rủi ro: Rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến trong quá trình hoạt động kinh doanh, gây ra thiệt hại cho ngân hàng. Khả năng bù đắp rủi ro là khả năng tài chính bù đắp được tổn thất khi xảy ra rủi ro, NHTM thực hiện trích dự phòng rủi ro vào chi phí hoạt động thông qua việc trích lập dự phòng cho phần giá trị tài sản có có khả năng không thể thu hồi được.

Nếu nợ xấu tăng lên thì dự phòng rủi ro cũng tăng lên để bù đắp được rủi ro, có nghĩa là khả năng sinh lời tài chính cho phép sử dụng để bù đắp tổn thất có thể xảy ra. Ngược lại nợ xấu tăng nhưng dự phòng không đủ để bù dắp có nghĩa là tình trạng tài chính xấu và năng lực bù đắp bởi chi phí bị hạn hẹp. Mức độ dự phòng rủi ro được tính.

Mức độ dự phòng rủi ro = Tổng mức dự phòng nợ xấu/ Tổng nợ xấu x 100% (3)

1.2. Chất lượng nguồn nhân lực

Con người là một nguồn lực quan trọng của bất kì tổ chức nào. Trong các NHTM, con người càng đóng vai trò quan trọng, tuy nhiên để đánh giá chất lượng nguồn lực con người không phải là điều đơn giản bởi nhiều chỉ tiêu thể hiện thông qua năng lực tài chính đã đồng thời thể hiện chất lượng nguồn nhân lực của ngân hàng. Chẳng hạn, chỉ tiêu ROA, ROE, ngoài việc liên quan trực tiếp đến năng lực tài chính của NHTM mà còn thể hiện chất lượng nguồn lực của NHTM. Đánh giá năng lực quản trị, điều hành của nhân tố con người trong NHTM thông qua các tiêu chí sau:

- Mô hình một ngân hàng hiện đại;

- Cơ cấu, trình độ, thực hiện của bộ máy lãnh đạo, của lực lượng lao động chủ yếu, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao;

- Khả năng ứng phó của cơ chế điều hành trước diễn biến của thị trường;

- Cơ chế vận hành một ngân hàng hiện đại (quản trị tài sản nợ, tài sản có, quản trị dịch vụ phi tín dụng, quản trị kế toán và ngân quỹ, quản trị nhân sự…).

1.3. Điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật, trình độ công nghệ thông tin

Trong lĩnh vực ngân hàng, công nghệ đang ngày càng đóng vai trò như là một trong các nguồn lực tạo ra lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất của mỗi ngân hàng. Năng lực công nghệ của NHTM thường được đánh giá thông qua các tiêu chí:

- Khả năng trang bị công nghệ mới bao gồm thiết bị và nhân lực;

- Mức độ đáp ứng của công nghệ ngân hàng đối với nhu cầu của thị trường để giữ được thị phần dịch vụ;

- Tính liên kết công nghệ giữa các ngân hàng và tính độc đáo về công nghệ của mỗi ngân hàng. Ngoài ra, còn có thể đánh giá năng lực cạnh tranh của mỗi ngân hàng qua danh tiếng và uy tín của mỗi ngân hàng đó. Về hình thức, danh tiếng và uy tín biểu hiện qua thương hiệu. Về bản chất, danh tiếng và uy tín được tạo ra từ chất lượng, quy mô của sản phẩm dịch vụ.

1.4. Tính đa dạng của sản phẩm dịch vụ

Với đặc tính riêng của ngành ngân hàng là các sản phẩm dịch vụ hầu như không có sự khác biệt thì các NHTM phát huy khả năng cạnh tranh của mình không chỉ bằng những sản phẩm cơ bản mà còn thể hiện ở tính độc đáo, sự đa dạng của sản phẩm dịch vụ của mình. Một ngân hàng mà có thể tạo ra sự khác biệt riêng cho từng loại sản phẩm của mình trên cơ sở những sản phẩm truyền thống sẽ làm cho danh mục sản phẩm của mình trở nên đa dạng hơn, điều này sẽ đáp ứng được hầu hết các nhu cầu cầu khác nhau của khách hàng khác nhau, từ đó dễ dàng chiếm lĩnh thị phần và làm tăng sức mạnh cạnh tranh của ngân hàng. Ngòai ra, các NHTM còn sử dụng các sản phẩm dịch vụ bổ trợ khác để thu hút khách hàng, tạo thu nhập cho ngân hàng như cung cấp sao kê định kỳ, tư vấn tài chính…

1.5. Thị phần và hệ thống phân phối

Thị phần trên các phân đoạn thị trường mà ngân hàng cung cấp sản phẩm dịch vụ là một chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh của các NHTM. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của luận án, việc nghiên cứu năng lực cạnh tranh trên toàn bộ các khía cạnh hoạt động của các NHTM Việt Nam là rất khó khăn và phức tạp, mặt khác, trong tình hình hoạt động kinh doanh của hệ thống NHTM Việt Nam hiện nay, nhìn chung các sản phẩm, dịch vụ mà các ngân hàng cung cấp vẫn chưa thực sự đa dạng và phong phú, các hoạt động kinh doanh cơ bản, truyền thống như hoạt động tín dụng, huy động vốn, kinh doanh ngoại tệ, hoạt động thanh toán quốc tế và chi trả kiều hối, hoạt động thẻ… vẫn đóng vai trò chủ đạo và chiếm phần lớn trong tổng thu nhập.

Do vậy, việc đánh giá thị phần chiếm lĩnh trong các hoạt động kinh doanh chủ yếu cũng phản ánh tương đối chính xác thực trạng năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam hiện nay.

Ngoài các tiêu chí trên, việc đánh giá năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại còn gồm các tiêu chí khác như: năng lực quản trị điều hành ngân hàng; Danh tiếng, uy tín và khả năng hợp tác.

2. Năng lực cạnh tranh của Sacombank

Giai đoạn 5 năm từ 2017 đến 2021, tổng tài sản của Sacombank đã có sự thay đổi đáng kể. Cụ thể, tổng tài sản năm 2017 364.016.293 triệu đồng đến năm 2021 đã lên tới 515.900.025 triệu đồng, tương ứng tăng 151.883.732 triệu đồng. Năm 2019 chứng kiến mức tăng trưởng lớn nhất với mức tăng trưởng 11,75%, tương ứng 47.234.266 triệu đồng.

Trong 8 tháng đầu năm 2023, tổng tài sản của Sacombank tiếp tục được mở rộng và giữ vững vị thế về quy mô, đạt hơn 635 ngàn tỷ đồng, tăng hơn 7% so với đầu năm. Chất lượng tài sản cải thiện mạnh mẽ với tài sản có sinh lời tăng 9,4%, chiếm tỷ trọng 91% trong tổng tài sản; hiệu suất sinh lời cũng gia tăng đáng kể, ROA - ROE lần lượt đạt 1,21% và 18,13%, tăng 0,3% và 4,3% so với năm trước.

Ngoài ra, Sacombank cũng tăng cường kiểm soát chất lượng tài sản có rủi ro, thường xuyên rà soát, đánh giá danh mục rủi ro trọng yếu, khẩu vị rủi ro và kiểm tra sức chịu đựng nhằm đánh giá một cách toàn diện khả năng đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn trong các trường hợp căng thẳng nhất, từ đó có kế hoạch vốn và phân bổ vốn phù hợp.

Vốn chủ sở hữu tính đến 31/8/2023 của Sacombank đạt hơn 43 ngàn tỷ đồng, tăng gần 12% chủ yếu tăng từ lợi nhuận chưa phân phối. Trong đó, vốn điều lệ là 18.852 tỷ đồng, chiếm 43,7% vốn chủ sở hữu. Cơ cấu vốn huy động đảm bảo an toàn thanh khoản, tổng huy động của Ngân hàng tại cùng thời điểm đạt gần 558 ngàn tỷ đồng, tăng hơn 7% so với đầu năm, trong đó, huy động từ tổ chức kinh tế và dân cư tăng hơn 11%, chiếm 4,2% thị phần toàn ngành.

Song song đó, Sacombank tích cực đẩy mạnh các hoạt động phi tín dụng để đa dạng hóa nguồn thu, đặc biệt là ngân hàng số, dịch vụ ngoại hối giúp tổng thu nhập gia tăng trưởng cao so cùng kỳ năm trước. Tổng thu nhập thuần của Sacombank trong 8 tháng đầu năm 2023 đạt gần 17.500 tỷ đồng, tăng 9,3%. Chi phí hoạt động được kiểm soát chặt chẽ. Lợi nhuận trước thuế hợp nhất đạt 6.175 tỷ đồng, tăng 56% so với cùng kỳ năm trước, đạt 65% kế hoạch ĐHĐCĐ giao.

Năm 2023 là năm thứ 7 Sacombank thực hiện tái cơ cấu theo Đề án đã được phê duyệt. Ngân hàng đã hoàn thành chỉ tiêu quan trọng khi xử lý thành công 21.576 tỷ đồng lãi dự thu vào năm ngoái. Trên đà tăng trưởng, Sacombank tiếp tục đẩy mạnh công tác thu hồi, xử lý nợ xấu với số thu gần 2.700 tỷ đồng, nâng tổng số thu hồi xử lý lũy kế kể từ khi triển khai Đề án lên mức 90.600 tỷ đồng. Đồng thời, tính đến 31/08/2023, Sacombank đã trích lập dự phòng rủ ro đầy đủ theo đúng quy định đối với tất cả các khoản nợ xấu và tài sản tồn đọng bao gồm trái phiếu VAMC; lũy kế từ khi triển khai Đề án trích lập và phân bổ gần 35.600 tỷ đồng. Với những diễn biến tích cực kể trên, nhiều dự đoán cho rằng Sacombank có thể hoàn tất Đề án tái cơ cấu trước thời hạn.

Hệ số an toàn vốn (CAR) của Sacombank luôn luôn duy trì ở mức xung quanh 9% - mức cân đối giữa an toàn hoạt động và hiệu quả kinh doanh.

Sacombank hiện sở hữu hệ thống khách hàng lên tới 15 triệu, trong đó 50% là khách hàng số. Số lượng giao dịch trên kênh số của Sacombank tăng trưởng gấp 5 lần trong giai đoạn 2018 - 2022, tăng trưởng bình quân 43%. Riêng năm 2022, 97% giao dịch là giao dịch số thông qua các kênh như Internet Banking, Mobie Banking và Ứng dụng quản lý tài chính Sacombank Pay.

Bên cạnh đó, số lượng khách hàng đăng ký mới của nhà băng này cũng tăng trưởng mạnh trên tất cả các kênh số. Cụ thể, hết năm 2022, có hơn 15.000 thẻ phi vật lý mở qua kênh số; 220.000 tài khoản được mở trực tuyến, hơn 1,3 triệu khách hàng mới.

3. Một số giải pháp

Để nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng nói chung, Sacombank nói riêng trong cách mạng công nghiệp 4.0, tác giả đề xuất một số giải pháp như sau:

3.1 Đối với Chính phủ

Để tạo điều kiện cho hệ thống ngân hàng hoạt động tốt và hiệu quả, Chính phủ cần tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, đảm bảo 3 mục tiêu cơ bản là: ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, tăng trưởng bền vững. Ổn định tiền tệ: Chính phủ cần phối hợp với NHNN để đưa ra những chính sách tiền tệ hợp lý, điều hành tăng trưởng tín dụng ở mức hợp lý phù hợp với diễn biến của thị trường. Đảm bảo sức mua đồng tiền trong thị trường nội địa và ổn định tỷ giá đồng Việt Nam trên thị trường ngoại hối.

Kiềm chế lạm phát: Tiếp tục sử dụng linh hoạt các công cụ của chính sách tiền tệ để giảm sức ép lạm phát, giảm lãi suất xuống mức phù hợp đảm bảo thanh khoản cho hệ thống ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế. Tăng trưởng bền vững: Tăng trưởng kinh tế của nước ta trong những năm qua đạt tốc độ cao nhưng sức cạnh tranh và tính bền vững của kinh tế chưa cao. Việc Chính phủ quản lý tốt các chính sách kinh tế vĩ mô sẽ giúp nền kinh tế duy trì được mức tăng trưởng bền vững, tạo điều kiện quan trọng để thực thi có hiệu quả các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh.

Chính phủ cần ban hành hệ thống pháp lý đầy đủ, đồng bộ và khả thi để hệ thống NHTM hoạt động có hiệu quả. Chính phủ đã và đang ban hành nhiều văn bản pháp quy, cơ chế chính sách điều chỉnh quan hệ tài chính doanh nghiệp nói chung, các TCTD, NHTM nói riêng như: thuế, vốn chủ sở hữu, sử dụng tài sản cố định… Tuy nhiên, quá trình vận động của thời gian, có nội dung bị lạc hậu, cần sửa đổi, có nội dung cần bổ sung để thúc đẩy doanh nghiệp phát triển.

3.2 Đối với Ngân hàng Nhà nước

Ngân hàng Nhà nước là cơ quan quản lý ngành thông qua hệ thống các cơ chế, chính sách, quy chế, quy định, quy trình, tiến hành kiểm tra, giám sát để quản lý và định hướng cho hoạt động của các tổ chức tín dụng, NHTM theo mục tiêu chung. Có một số kiến nghị với NHNN như sau:

- Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách về tiền tệ và hoạt động Ngân hàng trên cơ sở tiến hành rà soát bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật cho phù hợp với các cam kết quốc tế trong lĩnh vực Ngân hàng, gồm có các nội dung chính:

+ Sửa đổi Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Luật Các tổ chức tín dụng và các văn bản pháp luật khác có liên quan để đảm bảo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trở thành Ngân hàng Trung ương hiện đại, tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức tín dụng trong hoạt động kinh doanh, từng bước áp dụng các chuẩn mực và thông lệ quốc tế trong hoạt động Ngân hàng đảm bảo hoạt động của các tổ chức tín dụng an toàn hiệu quả. + Tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách tín dụng theo nguyên tắc thị trường và nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức tín dụng; tách bạch hoàn toàn tín dụng chính sách và tín dụng thương mại.

+ Hoàn thiện các quy định phù hợp với yêu cầu ứng dụng công nghệ điện tử và chữ ký điện tử trong lĩnh vực Ngân hàng. Hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối, cải cách hệ thống kế toán Ngân hàng phù hợp chuẩn mực kế toán quốc tế. Hoàn thiện các quy định về thanh toán không dùng tiền mặt.

Định hướng, ban hành thông tư hướng dẫn nhằm định hướng và thúc đẩy nền kinh tế:

+ Đưa ra chính sách hỗ trợ lãi suất giúp các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh được tiếp cận nguồn vốn ngân hàng với lãi suất thấp hơn, góp phần giảm bớt chi phí kinh doanh, tăng hiệu quả hoạt động và góp phần mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo nền tảng và động lực phát triển trong giai đoạn phục hồi, phát triển kinh tế.

+ Điều hành linh hoạt các giải pháp tín dụng nhằm kiểm soát quy mô, tăng trưởng tín dụng hợp lý, hướng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ; kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; định hướng cơ cấu tín dụng phù hợp với chuyển dịch nền kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững..

+ Ổn định các mức lãi suất điều hành, tạo điều kiện cho Tổ chức tín dụng tiếp cận nguồn vốn từ NHNN với chi phí thấp; tiếp tục chỉ đạo Tổ chức tín dụng chủ động cân đối khả năng tài chính, triệt để tiết giảm chi phí hoạt động, tập trung mọi nguồn lực để giảm lãi suất cho vay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

Quốc hội (2010), Luật số 17/2019/QH14, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12.

Đinh Phi Hổ (2009), Đánh giá mức độ hài lòng của khách hàng ứng dụng cho hệ thống ngân hàng thương mại. Tạp chí quản lý kinh tế - CIEM số 26;

Nguyễn Thị Hoài Thu (2013). Mô hình phân tích năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Luận án Tiến sĩ. Học viện Ngân hàng;

https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/ly-thuyet-nang-luc-canh-tranh-ngan-hang-nghien-cuu-thuc-nghiem-tai-mot-so-ngan-hang-thuong-mai-co-phan-tren-dia-ban-tp-ho-chi-minh-68142.htm.

NCS. Võ Phúc Trường Thành

Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội

Tạp chí in số tháng 3/2024
Bạn đang đọc bài viết Nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM trong cách mạng công nghiệp 4.0 tại chuyên mục Bài báo khoa học của Tạp chí Tài chính doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác:

email: [email protected], hotline: 086 508 6899