Ứng dụng công nghệ số, công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp: Số hóa ngay từ khâu đầu của chuỗi sản xuất

29/11/2022, 13:44

TCDN - Nhiều lĩnh vực của nông nghiệp đang được áp dụng công nghệ số như quản lý đồng ruộng, sử dụng mobile app (phần mềm trên điện thoại di động), drone (thiết bị bay điều khiển từ xa), hệ thống cảm biến nhiệt, cảm biến thức ăn, tự động hóa vệ sinh chuồng trại… phục vụ cho việc truy xuất nguồn gốc.

qr-17552451

Dư địa nông nghiệp không đến từ điều kiện tự nhiên

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang chỉ đạo 2 mũi nhọn đầu tiên áp dụng chuyển đổi số là: Trồng trọt và Chăn nuôi, mà cụ thể là mã hóa vùng trồng, mã hóa thức ăn chăn nuôi. Đầu tiên là mã hóa vùng trồng, mã hóa thức ăn chăn nuôi.

Ông Nguyễn Quốc Toản, Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn nhấn mạnh, nếu các hợp tác xã không có nền tảng dữ liệu, không có các sản phẩm được định danh, không truy xuất được nguồn gốc, thì gần như không thể đưa hàng hóa lên không gian mạng. Hiện chỉ có khoảng 500 doanh nghiệp Việt Nam đang kinh doanh trên nền tảng Alibaba, năm 2023 phấn đấu có khoảng 1.000 doanh nghiệp. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là kỹ năng đưa hàng hóa lên mạng. Mỗi hợp tác xã là nền tảng để xã viên tiếp cận cơ sở số hóa dữ liệu. Nâng cao được vai trò của Hiệp hội doanh nghiệp số Việt Nam.

Theo ông Toản, hiện cả nước có khoảng 5.000 làng nghề, trong đó có gần 2.000 làng nghề nông nghiệp. “Đây là dư địa rất lớn, cần có cơ sở dữ liệu làng nghề. Đây chính là giá trị văn hóa mà chúng ta sẽ lan tỏa bằng công nghệ. Khách du lịch đến với làng nghề qua không gian mạng trước tiên, cũng là dữ liệu để chúng ta mang đi thế giới”.

Thực tế còn có những khó khăn nhất định trong áp dụng chuyển đổi số. Ông Toản nêu ví dụ về việc hiện có nhiều phần mềm khác nhau. Cùng là mã số vùng trồng, mã số thức ăn chăn nuôi, song mỗi nơi một cách hiểu, một cách làm. “Khi có cách tiếp cận trúng, đầy đủ, sẽ có cách làm đúng. Hiệp hội Nông nghiệp số Việt Nam cần kết nối nhiều hơn nữa với các Sở Nông nghiệp địa phương, tạo chỗ dựa vững chắc cho nông dân”.

“Dư địa trong nông nghiệp thời gian tới sẽ không đến từ điều kiện tự nhiên. Đó sẽ là tri thức số, tri thức ngành” - ông Toản khẳng định.

Bà Hạ Thúy Hạnh, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, cho biết trong nhiều lĩnh vực của nông nghiệp đều đang áp dụng công nghệ số như quản lý đồng ruộng, sử dụng mobile app (phần mềm trên điện thoại di động), drone (thiết bị bay điều khiển từ xa), hệ thống cảm biến nhiệt, cảm biến thức ăn, tự động hóa vệ sinh chuồng trại. Đây là xu thế tất yếu, phục vụ cho việc truy xuất nguồn gốc.

Hiện Tổ khuyến nông cộng đồng đang được thí điểm ở 13 tỉnh với 26 tổ, số hóa ngay từ khâu đầu chuỗi sản xuất cho bà con nông dân. Trung tâm đang kết hợp với các đơn vị liên quan để tài liệu thật dễ hiểu, ngắn gọn.

Chuyển đổi số ngay từ khâu đăng ký

Ông Nguyễn Minh Tiến, Giám đốc Trung tâm Xúc tiến thương mại nông nghiệp chia sẻ, văn phòng Nông thôn mới Trung ương triển khai xếp hạng sản phẩm OCOP với hệ thống hồ sơ minh chứng đi kèm rất nhiều.

Trước khi thực hiện số hóa, một bộ hồ sơ cấp huyện lên tỉnh dày tới 4-500 trang. Đến năm 2020, nhận thấy quá trình in ấn, chuẩn bị hồ sơ giấy thuần túy tốn kém, Văn phòng Nông thôn mới Trung ương đã tham mưu lãnh đạo Bộ để số hóa việc chuẩn bị hồ sơ OCOP từ cấp huyện lên tỉnh và đối với sản phẩm tiềm năng quốc gia lên 5 sao.

“Đến nay, 1/3 số tỉnh áp dụng phần mềm này để chấm đánh giá cấp tỉnh đến cấp huyện. Thay vì mất khoảng 850 tỷ tiền photo các hồ sơ cho hơn 8.500 sản phẩm OCOP, chi phí đầu tư cho phần mềm chấm và đánh giá sản phẩm không lớn”, ông Tiến thông tin.

Ông Tiến cho rằng không chỉ dừng lại ở số hóa thủ tục hành chính, mà chúng ta cần từng bước đưa số liệu từ cấp đăng ký, nhập liệu, chứng nhận VietGAP... vào hệ thống dữ liệu của 8.565 sản phẩm OCOP. Việc áp dụng chuyển đổi số ngay từ khâu đăng ký, có thể giúp giám sát đường đi nước bước, truy xuất, cũng như các sản phẩm đã được cải tiến, nâng cao chất lượng như thế nào thông qua thang điểm đánh giá.

TS. Lê Quý Kha, cố vấn Công ty Đại Thành, cho hay Đại Thành đang xây dựng trạm giám sát nông nghiệp thông minh, vận hành ở các tỉnh phía Nam. Công nghệ này phục vụ truy xuất nguồn gốc, mã số vùng trồng. Với máy cắt cỏ tự động, tất cả đều gói gọn trong chiếc smatphone, các loại cỏ từ sân vận động, sân gôn, cỏ trên đồi cao su… đều được cắt tỉa bằng phẳng, nhanh gọn trong thời gian ngắn.

“Áp dụng công nghệ vào sản xuất đều phải đi theo chuỗi, có như vậy mới đưa sản phẩm của người nông dân thoát khỏi tình trạng được mùa rớt giá”, TS. Lê Quý Kha nhấn mạnh thêm.

Đề cập chuyển đổi số ở cấp địa phương, ông Lê Quốc Điền, đại diện Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Đồng Tháp thông tin, địa phương đã ứng dụng công nghệ số hóa với 3 giai đoạn. Trong đó, ở giai đoạn 1, tỉnh này tập trung xây dựng cơ sở dữ liệu cho các hoạt động sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là xây dựng cơ sở dữ liệu trong truy xuất nguồn gốc, mã số vùng trồng.

Ở lĩnh vực trồng trọt, tỉnh đã làm thông tin tổng quan và lĩnh vực phát triển nông thôn, nông thôn mới, sản phẩm OCOP thì địa phương đã thực hiện các dữ liệu về sản phẩm để người dân có thể cập nhật và theo dõi.

Về lĩnh vực chăn nuôi, thủy sản, tỉnh Đồng Tháp cũng xây dựng cơ sở dữ liệu; lĩnh vực thủy lợi, phòng chống thiên tai cũng được xây dựng để đảm bảo các biện pháp cảnh báo, phòng trừ thiên tai và chủ động trong sản xuất.

Theo ông Lê Quốc Điền, ở giai đoạn 2, tỉnh Đồng Tháp xây dựng các cơ sở dữ liệu để thông qua các số liệu này có thể biết được năng suất, sản lượng cây trồng, vật nuôi và có thể ứng phó biến đổi khí hậu. Đối với giái pháp IoT, tỉnh Đồng Tháp đã xây dựng dữ liệu về dịch hại cây trồng, chỉ tiêu chất lượng nước. Điều này giúp cho các huyện điều hành sản xuất một cách hiệu quả. "Về AI thì dự báo thiên tai, dịch hại ảnh hưởng đến sản xuất", ông Lê Quốc Điền nói.

Trong giai đoạn 3, tỉnh Đồng Tháp kết hợp công nghệ GIS cùng với giải thuật trí tuệ nhân tạo AI, dự báo sản lượng, thị trường, xúc tiến thương mại. Đồng bộ dữ liệu từ Trung ương đến địa phương để đồng bộ nền tảng nông nghiệp số Quốc gia. Cũng theo ông Điền, trong lĩnh vực trồng trọt và BVTV thì địa phương quản lý được mã số vùng trồng, nắm rõ các dữ liệu số. Cuối cùng là triển khai, tập huấn cập nhật dữ liệu số cho các xã thông qua các app. Qua đó thực hiện quy trình báo cáo định kỳ từ các xã…

Hiện nay, tỉnh Đồng Tháp có 265 sản phẩm OCOP. Để có thể tra cứu được sản phẩm này, tỉnh đã xây dựng cơ sở dữ liệu với các mô tả, phân hạng rõ ràng để người dân và các cấp quản lý có thể nắm rõ. Vấn đề hiện nay ở địa phương là khó khăn trong tiếp cận công nghệ và chuyển đổi số vẫn còn chậm. Do vậy, sắp tới tỉnh cần có sự tập huấn nhiều hơn.

TS. Từ Minh Thiện, Hiệu trưởng trường ĐH Văn Hiến TP.Hồ Chí Minh (nguyên Phó ban quản lý Nông nghiệp công nghệ cao TP.HCM) cho hay các nước tiên tiến định hướng phát triển nông nghiệp thông minh rất rõ ràng. Ví dụ, nước Đức thúc đẩy tích hợp hệ thống M2M và IoT, triển khai các dự án nông nghiệp 4.0. Nhật Bản thì áp dụng công nghệ Al, tạo các mô hình phối hợp giữa con người, máy móc, sản xuất thông minh hay Israel, dù nghiên cứu khoa học nông nghiệp trong điều kiện bất lợi về tài nguyên thiên nhiên, khí hậu nhưng họ phát triển, ứng dụng rất hiệu quả công nghệ tưới nhỏ giọt vào trồng trọt trên sa mạc.

Phạm Trang

Tạp chí in số 11/2022
Bạn đang đọc bài viết Ứng dụng công nghệ số, công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp: Số hóa ngay từ khâu đầu của chuỗi sản xuất tại chuyên mục Thị trường của Tạp chí Tài chính doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác:

email: [email protected], hotline: 086 508 6899

Bình luận

Tin liên quan

Xây dựng hệ sinh thái nông nghiệp hữu cơ: Tạo dựng lòng tin, chuyên tâm sản xuất sản phẩm chất lượng, an toàn
Số lượng các mô hình sản xuất và liên kết sản xuất, tiêu thụ theo quy trình canh tác hữu cơ tại các địa phương ngày càng nhiều, đã góp phần nâng cao chất lượng nông sản. Tuy nhiên, việc xây dựng hệ sinh thái nông nghiệp hữu cơ đang gặp khó khăn từ chính những yếu tố tạo ra giá trị.
Giảm phát thải và phát triển nông nghiệp bền vững:  Khơi thông nguồn lực đầu tư, chuyển đổi mô hình sản xuất
Để thực hiện các chiến lược, cam kết quốc tế đưa mức phát thải ròng về “0”, ngành Nông nghiệp Việt Nam đang triển khai các giải pháp khơi thông nguồn lực đầu tư của toàn xã hội và chuyển đổi mô hình sản xuất sang tăng trưởng nông nghiệp “xanh, ít phát thải và thích ứng với biến đổi khí hậu”.