Xu hướng phát triển tín dụng xanh tại các nước trên thế giới
TCDN - Tín dụng xanh có thể được hiểu là các khoản tín dụng được ngân hàng cấp cho các dự án sản xuất kinh doanh “xanh” không gây rủi ro cho môi trường nhằm đối phó với những thách thức của môi trường và xã hội.
Trên thực tế, xu hướng tăng trưởng tín dụng xanh đã phát triển từ lâu trên thế giới với các dự án tiết kiệm năng lượng, tái tạo năng lượng và công nghệ sạch nhằm hướng đến mục tiêu kép là tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo vệ môi trường.
1. Trung Quốc
Trung Quốc từ năm 1995, Bộ Bảo vệ môi trường (MEP) và NHTW Trung Quốc (PBC) đưa ra các chính sách, mà lần đầu tiên trực tiếp liên quan đến việc xem xét các vấn đề môi trường trong chính sách cho vay của các ngân hàng.
Trong hội nghị thượng đỉnh về Hiệp ước khung Liên Hiệp Quốc về Biến đổi khí hậu (UNFCCC) tại Copenhagen năm 2009, Trung Quốc cũng là một trong các quốc gia cam kết vô điều kiện việc giảm thiểu hoặc giới hạn mức độ ô nhiễm cácbon vào năm 2020. Các ngân hàng tại Trung Quốc đã, đang và sẽ đóng vai trò rất quan trọng trong việc đóng góp vào quá trình giảm thiểu 40 - 50% khí các bon vào năm 2020 như đã cam kết.
Trung Quốc đã xây dựng bản Hướng dẫn tín dụng xanh nhằm mục đích khuyến khích các tổ chức ngân hàng, bằng cách tập trung vào tín dụng xanh, chủ động điều chỉnh cơ cấu tín dụng, có hiệu quả chống lại các rủi ro môi trường và xã hội, phục vụ tốt hơn các nền kinh tế thực, và thúc đẩy sự chuyển đổi để tăng trưởng kinh tế tốt hơn và điều chỉnh cơ cấu kinh tế.
Các đặc điểm chính của Hướng dẫn tín dụng xanh tại Trung Quốc có thể tóm tắt bằng các điểm chính sau:
Các tổ chức ngân hàng khuyến khích để thúc đẩy tín dụng xanh một cách có chiến lược, cả về hỗ trợ cho nền kinh tế xanh với khí thải các bon thấp lẫn cải thiện môi trường và xã hội;
Việc xác định, đo lường, giám sát và kiểm soát hiệu quả các rủi ro liên quan đến môi trường và xã hội (E&S) là rất quan trọng, thông qua một cơ chế quản lý rủi ro, chính sách tín dụng và quá trình quản lý;
Quản lý cấp cao (hội đồng quản trị hoặc Ban kiểm soát) được khuyến khích để làm chủ việc thúc đẩy tín dụng xanh trong các tổ chức của họ;
Quy trình quản lý là cốt lõi để cải thiện tín dụng xanh: bao gồm xác định hoạt động của khách hàng có nguy cơ, việc sử dụng các nguyên tắc cấp tín dụng cụ thể và tùy chỉnh dành cho các ngành công nghiệp nhất định, cải thiện việc quản lý quá trình thẩm định và phê duyệt tín dụng, thay đổi các điều khoản hợp đồng và quản lý hậu cho vay;
Công khai thông tin và tính minh bạch cũng được đẩy mạnh.
2. Ấn Độ
Cho đến cuối thế kỷ XX, “màu xanh lá cây” chỉ có nghĩa là màu của tiền đối với các ngân hàng ở Ấn Độ. Với sự ra đời của Máy rút tiền tự động (ATM) vào năm 2001, ngành ngân hàng Ấn Độ đã chủ động hướng tới một hệ thống ngân hàng thân thiện với môi trường. Sau đó, nhiều sáng kiến đã được thực hiện, những hoạt động xanh lần lượt được triển khai, như sử dụng giấy tờ thân thiện với môi trường, ATM sử dụng năng lượng mặt trời, dự án xanh, thực hành tiết kiệm năng lượng, sức khỏe và an toàn nơi làm việc, tổ chức các chiến dịch nâng cao nhận thức,…
Các ngân hàng càng ngày càng có ý thức cho vay đối với các dự án xanh, mở các chi nhánh tiết kiệm năng lượng và thân thiện với môi trường và sử dụng giấy tái chế để in sổ séc. Trong số các ngân hàng khu vực công, Ngân hàng Nhà nước Ấn Độ (SBI) đã thực hiện chính sách ngân hàng xanh với các dự án như thiết lập các cối xay gió để tạo ra điện với công suất 15 MW ở Tamil Nadu, Maharashtra và Gujarat, trở thành ngân hàng Ấn Độ đầu tiên làm như vậy. Họ cũng đưa ra một chương trình cho vay mua nhà xanh hỗ trợ các dự án dân cư thân thiện với môi trường mang lại một số lợi ích tài chính.
Mặt khác, Ngân hàng Liên minh Ấn Độ (UBI) thực hiện kiểm toán năng lượng điện hàng năm và cũng đã lắp đặt máy nước nóng năng lượng mặt trời tại cơ sở của mình. Ngân hàng Phát triển Công nghiệp Ấn Độ (IDBI Bank) là thành viên của hội đồng Kế hoạch hành động quốc gia về biến đổi khí hậu (NAPCC) và là nhà đầu tư ký kết Dự án công bố carbon (CDP). Ngân hàng cung cấp dịch vụ tư vấn cho khách hàng để đối phó với Cơ chế phát triển sạch (các dự án góp phần giảm thiểu lượng khí thải nhà kính) hoặc Tín dụng carbon của Nghị định thư Kyoto và Cơ quan giảm phát thải tự nguyện (VERs) (Bihari, 2011).
Ngày nay, khi một người có tài khoản tiết kiệm được mở trong ngân hàng, hầu hết các ngân hàng đều cung cấp ba mật khẩu - một mật khẩu để giao dịch từ ATM, một cho ngân hàng trực tuyến và thứ ba cho PhoneBanking. Đó là một dấu hiệu rõ ràng về mức độ sử dụng công nghệ của các ngân hàng mở đường cho Ấn Độ trở thành “THUMB ECONOMY”. Ngân hàng xanh không chỉ đơn thuần là bảo vệ môi trường mà còn làm hài lòng khách hàng tiết kiệm thời gian, năng lượng và tiền bạc. Mọi người đang sử dụng nhiều loại dịch vụ thông qua thẻ ghi nợ hoặc thẻ tín dụng của họ. Đặt phòng trực tuyến, thanh toán hóa đơn, mua sắm trực tuyến, tải xuống các giao dịch ngân hàng cũng như giao dịch thẻ tín dụng, xác minh số dư ngân hàng, chuyển tiền, mở và đóng tài khoản, cân đối sổ séc, theo dõi hoạt động tài khoản gần đây… Sáng kiến của ngân hàng xanh là cùng có lợi cho các ngân hàng, ngành công nghiệp và nền kinh tế. Hơn nữa, nó sẽ đảm bảo chất lượng tài sản ngẫu hứng của các ngân hàng trong tương lai.
Ấn Độ là quốc gia phát triển nhanh thứ sáu và lớn thứ hai thế giới về sản xuất khí nhà kính. Một trở ngại lớn trong việc thực hiện các sáng kiến xanh của các ngân hàng tồn tại do không có chính sách và quy định. Về vấn đề này, RBI và chính phủ Ấn Độ đóng vai trò chủ động bằng cách xây dựng các hướng dẫn chính sách xanh. RBI hoặc bất kỳ cơ quan quản lý nào khác có thể nhận ra và thưởng cho các nhà cung cấp có ý thức về môi trường đối với các khoản vay xanh hàng năm. Các cơ quan xếp hạng xanh có thể được thiết lập để xếp hạng các khoản vay xanh, quỹ xanh, công cụ tài chính xanh... có thể được phép giảm thuế cho những người thực hiện đầu tư xanh.
3. Bangladesh
Vấn đề ngân hàng xanh đã trở thành một vấn đề quan trọng trong Ngành ngân hàng Bangladesh trong những năm qua. Tuy nhiên các ngân hàng Bangladesh nhấn mạnh vào hoạt động ngân hàng xanh chủ yếu và vì của sự khuyến khích và áp lực từ Ngân hàng Trung ương Bangladesh (hay còn gọi là Ngân hàng Bangladesh).
Là ngân hàng trung ương, Ngân hàng Bangladesh vẫn là công cụ hỗ trợ chính và nguồn tài chính xanh ở Bangladesh. Ngân hàng Bangledesh đã ban hành các hướng dẫn ngân hàng xanh cho các ngân hàng và định chế tài chính để thúc đẩy tài chính xanh trong thời kỳ đầu khi nhận định về hoạt động ngân hàng xanh. Điển hình như, vào ngày 27 tháng 2 năm 2011, Ngân hàng Bangladesh đã ban hành Thông tư số 2 BRPD yêu cầu các ngân hàng thương mại áp dụng chính sách ngân hàng xanh để bảo tồn và kiến tạo môi trường. Ngày 22 tháng 7 năm 2012, Ngân hàng Bangladesh ban hành tiếp Thông tư số 07 BRPD nhằm hướng dẫn các ngân hàng về triển khai hoạt động ngân hàng xanh. Cuối cùng, vào ngày 11 tháng 9 năm 2013, Ngân hàng Bangladesh đã ban hành Thông tư số 05 GBCSRD - “Nguyên tắc chính sách Ngân hàng xanh” - hướng dẫn chi tiết việc thực hiện các chính sách cùng triển khai báo cáo về hoạt động ngân hàng xanh.
Ngoài ra, Ngân hàng Bangladesh nhấn mạnh vào định dạng báo cáo thống nhất để các ngân hàng báo cáo các hoạt động ngân hàng xanh, hạn mức tín dụng bắt buộc là 5% tổng số tiền giải ngân cho các ngân hàng và cơ sở hạ tầng ngân hàng xanh bao gồm quản lý chất thải rắn, thu hoạch nước mưa và việc lắp đặt các tấm pin mặt trời trên đỉnh.
Mặc dù Bangladesh chưa có bất kỳ sự kết hợp các chiến lược tài chính xanh gồm nào, Ngân hàng Bangladesh đã thúc đẩy tài chính xanh thông qua các chương trình tái cấp vốn ưu đãi và hạn ngạch tín dụng cho các định chế tài chính cũng như xây dựng các hướng dẫn cho các dự án chuyển đổi đặc thù của ngân hàng và nhà tài trợ. Vào tháng 1 năm 2016, Ngân hàng Bangladesh đã đặt ra hạn mức tín dụng 5% bắt buộc đối với tài chính xanh trực tiếp trong tổng số tiền giải ngân của tất cả các ngân hàng và định chế tài chính. Tổng tài chính xanh tính đến năm 2016 là Tk 0,03 tỷ, với 38 ngân hàng và 9 định chế tài chính đã giải ngân, trong đó các ngân hàng thương mại tư nhân (PCB) đóng góp phần lớn (80,4%). Số tiền tài chính xanh gián tiếp (Tk 469,9 tỷ đồng) đã vượt quá tổng số tài chính xanh trực tiếp (Tk 33,4 tỷ) trong năm 2016.
Các ngân hàng thương mại tư nhân và định chế tài chính phi ngân hàng là những người đóng vai trò chính trong việc tài trợ cho hầy hết các dự án xanh, như năng lượng tái tạo (16%), gạch nung (21%), sản phẩm tái chế và tài chế (15%), thiết lập các ngành công nghiệp xanh (15%) và quản lý chất thải lỏng (14%).
Ngân hàng Bangladesh đã thành lập một chương trình tái cấp vốn trị giá Tk 2 tỷ cho các nguồn tài chính thân thiện với môi trường và năng lượng tái tạo trong năm 2009 để tạo điều kiện tài trợ cho các sản phẩm xanh, như năng lượng mặt trời, nhà máy khí sinh học và nhà máy xử lý nước thải (ETPs). Kể từ tháng 9 năm 2016, bốn ngân hàng và một định chế tài chính đã ký thỏa thuận tham gia với Ngân hàng Bangladesh để tiếp cận quỹ. Từ năm 2012 đến 2016, tổng số tiền tái cấp vốn theo chương trình này là Tk 2678,9 triệu. Tuy nhiên, tổng số tiền giải ngân theo chương trình tái cấp vốn cho các sản phẩm xanh đã rất chậm mặc dù có tăng trong những năm gần đây.
Thực tế, nguồn tài chính xanh đang không đủ, Bangladesh hướng tới tiếp cận một lượng tài chính xanh quốc tế nhất định và ngành ngân hàng trong nước và các định chế tài chính đang đầu tư một số lượng nhất định danh mục đầu tư của họ vào các dự án xanh.
4. Việt Nam
Trên thực tế, xu hướng tín dụng xanh đã được nhiều ngân hàng tập trung phát triển trong vài năm gần đây. Tất nhiên khi cho vay, các ngân hàng vẫn phải lựa chọn khoản vay, khách hàng nhằm đảm bảo tuân thủ những điều kiện và tiêu chuẩn chung, tuy nhiên cho vay dự án xanh thường ít rủi ro hơn và mang lại nhiều lợi ích phát triển bền vững nên được các ngân hàng lựa chọn như một thị trường ngách đầy tiềm năng.
Ngoài những ngân hàng truyền thống như: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank), Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank)… đã có những thành tựu nhất định trong tăng trưởng tín dụng xanh, thì nay phải kể đến những cái tên như: Ngân hàng TMCP Bắc Á (Bac A bank), Ngân hàng TMCP Phát triển Tp. Hồ Chí Minh (HDbank), Ngân hàng TMCP Nam Á (Nam A bank). Đây cũng là 3 ngân hàng thương mại đã nhận được Giải thưởng Ngân hàng tiêu biểu về Tín dụng xanh năm 2019 do Tập đoàn Dữ liệu quốc tế IDG Vietnam phối hợp với Hiệp hội ngân hàng Việt Nam tổ chức trao giải tại Tp. Hồ Chí Minh cuối tháng 11/2019.
Đơn cử như: tại HDbank, nếu như năm 2018, ngân hàng này chỉ tài trợ cho 22 dự án tiết kiệm năng lượng, đầu tư năng lượng tái tạo… với dư nợ hơn 1.800 tỷ, chiếm 1,62 tổng dư nợ thì đến cuối tháng 9/2019, con số này đã lên đến 82 dự án tín dụng xanh với dư nợ đạt gần 7.900 tỷ đồng, chiếm hơn 6% tổng dư nợ. Tại Nam A Bank, đây là ngân hàng không vốn nhà nước đầu tiên ký kết hợp tác với GCPF - Quỹ hợp tác khí hậu toàn cầu triển khai chương trình “Tín dụng xanh”, cho vay vốn thực hiện các dự án liên quan đến bảo vệ môi trường, tiết kiệm năng lượng với lãi suất ưu đãi từ 7%/năm.
Dư nợ tín dụng xanh của Việt Nam có xu hướng tăng trong thời gian qua. Quí 4/2017 dư nợ tín dụng xanh của các NHTM Việt Nam là 180.121 tỷ đồng, đến quí 2/2019, con số này đã lên đến 300.000 tỷ đồng. Con số này có thấy các NHTM Việt Nam đang dần chú trọng phát triển hoạt động cấp tín dụng hướng tới tăng trưởng kinh tế xanh. Đây là điều kiện cần cho việc phát triển bền vững, làm “xanh hoá” dòng vốn đầu tư, góp phần thúc đẩy tăng trưởng xanh tại Việt Nam. Dư nợ tín dụng xanh chủ yếu tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp xanh, chiếm khoảng 55%, các chương trình cho vay hỗ trợ các doanh nghiệp, dự án sản xuất nông nghiệp sạch chiếm gần 40.000 tỷ với gần 20.000 khách hàng.
Như vậy, hoạt động tín dụng xanh đang ngày càng chú trọng ở các NHTM Việt Nam. Một số ngân hàng đã lồng ghép hoạt động tín dụng xanh trong chiến lược phát triển lược phát triển chung và đa phần đã quan tâm đến việc đánh giá rủi ro môi trường và xã hội, đặc biệt một số ngân hàng đã tham gia dự án có vốn tài trợ của các tổ chức tài chính quốc tế. Tuy nhiên, một thực tế rằng, các NHTM vẫn đang phải đối mặt với những khó khăn nhất định như cần chi phí lớn và đầu tư dài hạn, chưa có qui trình đánh giá chuẩn trong thẩm định, chưa có giải pháp đồng bộ từ cơ chế, chính sách hỗ trợ, quy hoạch thị trường đến từng ngành, lĩnh vực,... Vậy cần có hệ thống giải pháp đồng bộ để có thể phát triển tín dụng xanh trong thời gian tới.
Quang Bảo
email: [email protected], hotline: 086 508 6899