Xúc tiến thương mại Nhật Bản: Vẫn vướng, pháp lý

28/03/2019, 09:35

TCDN -
70% doanh nghiệp Nhật đầu tư tại Việt Nam có kế hoạch “mở rộng kinh doanh” trong thời gian tới. Tuy nhiên, hệ thống luật pháp chưa hoàn thiện, vận hành không rõ ràng đang ảnh hưởng lớn tới các hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN.





Trên 65% doanh nghiệp có lãi

Tính lũy kế đến ngày 20/2/2019, cả nước có 27.900 dự án đầu tư nước ngoài (FDI) còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 344,9 tỷ USD. Trong đó, nhà đầu tư Nhật Bản đứng thứ hai với 56,7 tỷ USD (chiếm 16,4% tổng vốn đầu tư), chỉ xếp sau Hàn Quốc về đầu tư vào Việt Nam. Riêng tại TP. Hồ Chí Minh trong 2 tháng đầu năm 2019, thành phố thu hút được 1,02 tỷ USD vốn FDI (bằng 94,7% so với cùng kỳ), trong đó, dòng vốn FDI đầu tư vào thành phố chủ yếu là từ Hàn Quốc với tỷ trọng (43,2%); tiếp theo là Singapore chiếm 15,8%; Nhật Bản chiếm 15%.

Theo khảo sát về thực trạng hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp Nhật tại Việt Nam vừa được Jetro (Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản) công bố, tỷ lệ doanh nghiệp trả lời “có lãi” chiếm 65,3%, tăng 0,2 điểm phần trăm so với năm trước (năm 2017 tỷ lệ này là 65,1%). Trong đó, khối doanh nghiệp chế tạo xuất khẩu là có thành tích kinh doanh tốt hơn cả, tỷ lệ các doanh nghiệp trả lời “có lãi” là 69,1%, vượt trên mức bình quân tổng thể. Phân chia theo khu vực, tỷ lệ có lãi của các doanh nghiệp Nhật ở khu vực Bắc Bộ cao hơn các khu vực khác.

Tỷ lệ có lãi đối với những doanh nghiệp thành lập trước năm 2010 ổn định ở mức trên dưới 80%, cho thấy việc đầu tư lâu dài tại Việt Nam có lãi ổn định.

Ông Kitagawa Hironobu, Trưởng đại diện Jetro cho biết, khi được hỏi về ước tính lợi nhuận kinh doanh năm 2019, có tới 57,8% doanh nghiệp Nhật ước tính lợi nhuận kinh doanh trong năm 2019 sẽ được cải thiện, cao hơn triển vọng tại các nước Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia, Indonesia, Philippines. Phân theo ngành nghề, khối ngành phi chế tạo là lạc quan hơn cả, khi có tới 60% ước tính tăng lợi nhuận trong năm nay.

Xét lợi thế về môi trường đầu tư, khảo sát cho thấy “quy mô thị trường, tính tăng trưởng” là lợi thế lớn nhất, 65,8% doanh nghiệp Nhật đánh giá rằng, Việt Nam có “quy mô thị trường, khả năng tăng trưởng”. Tiếp đó là “tình hình chính trị, xã hội ổn định” và “chi phí nhân công rẻ”... trong 15 quốc gia Jetro thực hiện khảo sát, Việt Nam đứng thứ 6/15 về quy mô thị trường, khả năng tăng trưởng và xếp vị trí 4/15 về chi phí nhân công rẻ và tình hình chính trị, xã hội ổn định.

Trong số 5 hạng mục rủi ro hàng đầu trong đầu tư, 4/5 hạng mục có cải thiện tương đối tốt so với kết quả khảo sát năm trước từ 0,3 đến 1,8 điểm %. Cụ thể là rủi ro “thuế và thủ tục thuế phức tạp” cải thiện giảm điểm so với năm trước (giảm 1,8 điểm), rủi ro về “thủ tục hành chính phức tạp (cấp phép)” giảm 1,7 điểm.

Đại diện Bộ Kế hoạch và Đầu tư đánh giá, số lượng doanh nghiệp Nhật làm ăn có lãi tại Việt Nam tăng lên tới 65,3% là con số đáng ghi nhận nếu so sánh với số lượng các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam báo lỗ là khoảng 52%. Điều này cũng cho thấy môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam là thuận lợi và ổn định.

Việt Nam là điểm đầu tư hấp dẫn

Theo ông Kitagawa Hironobu, Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) sẽ tác động đến quan hệ thương mại và đầu tư Việt - Nhật theo hướng tích cực. Cụ thể là ngành thương mại, dịch vụ sẽ có nhiều dư địa tăng trưởng cao và phát triển nhất. Hai là về giao dịch điện tử, những hạn chế trước đây sẽ được gỡ bỏ, nên sẽ mở ra nhiều cơ hội hợp tác. Việt Nam vốn có thế mạnh trong ngành IT (công nghệ thông tin), các doanh nghiệp Việt Nam nếu phối hợp tốt với doanh nghiệp Nhật trong lĩnh vực này, sẽ mở ra những cơ hội kinh doanh tốt cho doanh nghiệp cả hai nước khi áp dụng CPTPP.

So với các quốc gia khác trong khu vực, nhiều doanh nghiệp Nhật vẫn coi Việt Nam là điểm đầu tư hấp dẫn và quan trọng. Theo đó, khi được hỏi về kế hoạch triển khai hoạt động kinh doanh trong tương lai, khoảng 70% doanh nghiệp Nhật đầu tư tại Việt Nam tham gia khảo sát có kế hoạch “mở rộng kinh doanh”. So với các quốc gia khác, khả năng mong muốn tiếp tục mở rộng doanh nghiệp của các doanh nghiệp Nhật tại Việt Nam là tương đối cao. Con số này tại Trung Quốc là 48,7%, Indonesia là 49,2%, Thái Lan là 52,2%...

67,1% doanh nghiệp Nhật hoạt động tại Việt Nam từ trước năm 2010 cũng có phương châm mở rộng kinh doanh. Điều đó cho thấy, sức hấp dẫn của thị trường Việt Nam và Việt Nam tiếp tục là điểm đến đầu tư quan trọng của các doanh nghiệp Nhật.

Lý do chính để mở rộng kinh doanh, có 64,9% doanh nghiệp cho rằng, “tăng doanh thu” là lý do lớn nhất, tiếp đến là nhiều doanh nghiệp thể hiện kỳ vọng vào “tiềm năng và tính tăng trưởng cao”.

Tuy nhiên, đại diện Jetro cho biết, các doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam còn gặp không ít khó khăn trong hoạt động kinh doanh. Cụ thể: vướng mắc lớn nhất doanh nghiệp Nhật muốn Việt Nam tiếp tục cải thiện là vấn đề hệ thống luật pháp chưa hoàn thiện, vận hành không rõ ràng. Đây là yếu tố mang tính chất nền tảng, ảnh hưởng nhiều tới các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, Chính phủ cần hoàn thiện hơn nữa cơ chế luật pháp. Đồng thời, các thông tư, nghị định hướng dẫn đi kèm với các luật của Việt Nam cũng phải ban hành sớm khi có luật. Thêm nữa là vấn đề giải thích luật, cần có sự nỗ lực và phối hợp, hỗ trợ của Chính phủ Việt Nam với các doanh nghiệp để luật pháp được truyền đạt một cách đúng và chính xác tới các doanh nghiệp. Có như vậy các doanh nghiệp có thể hiểu và áp dụng đúng luật.

Một vấn đề khác, dù tỷ lệ đã giảm so với năm trước nhưng vẫn có khoảng 50% doanh nghiệp nêu ra vấn đề về “sự tăng lương cho nhân viên”, “khó khăn trong thu mua nguyên vật liệu, linh kiện tại nước sở tại”, “khó khăn trong việc quản lý chất lượng”. Ngoài ra, việc Việt Nam vẫn chưa có chính sách cụ thể cho việc phát triển ngành công nghiệp ô tô cũng là một trở ngại...

Ông Takimoto Koji, Trưởng đại diện JETRO TP. Hồ Chí Minh cho biết, để có thể tận dụng được hết làn sóng đầu tư Nhật Bản vào Việt Nam, Chính phủ và doanh nghiệp cần chú trọng vào giáo dục và phát triển nguồn nhân lực. Vì trong tương lai, việc ứng dụng robot vào sản xuất là tất yếu, khi đó các nhà máy sẽ cần nguồn nhân lực chất lượng cao có thể điều khiển robot. Đồng thời chú trọng hơn nữa việc đầu tư phát triển hạ tầng, nhất là giao thông, và năng lượng.

Tỷ lệ nội địa hóa của Việt Nam đến nay đã đạt 36,5% và kể từ năm 2010 đến nay, hàng năm tỷ lệ nội địa hóa đều gia tăng dần, tuy nhiên nếu so với Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia tỷ lệ này vẫn ở mức thấp vì thế các doanh nghiệp Việt Nam cần tiếp tục cải thiện.


Phương Thảo - Tạp chí TCDN số 3/2019
Bạn đang đọc bài viết Xúc tiến thương mại Nhật Bản: Vẫn vướng, pháp lý tại chuyên mục Tài chính quốc tế của Tạp chí Tài chính doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác:

email: [email protected], hotline: 086 508 6899

x