Bộ trưởng Bộ Công Thương: Nhập khẩu điện sạch, giá rẻ hơn điện năng lượng tái tạo
TCDN - Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho biết, thời gian qua nhập khẩu điện chỉ để cung cấp cho khu vực biên giới. Điện nhập khẩu từ các nước là điện sạch và có giá rẻ hơn điện năng lượng tái tạo trong nước.
59/85 nhà máy điện tái tạo nộp hồ sơ EVN
Chiều 1/6, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên đã giải đáp một số vấn đề đại biểu quan tâm liên quan tới năng lượng tái tạo và điện nhập khẩu.
Vấn đề phát triển năng lượng tái tạo và cơ chế xác định giá cho điện gió, điện mặt trời ở Việt Nam, theo Bộ trưởng Việt Nam được đánh giá là quốc gia có tiềm năng lớn để phát triển điện gió và mặt trời. Tuy nhiên, lại có một số nghịch lý là nơi có tiềm năng về nắng và gió lại là nơi có phụ tải thấp. Vì thế, muốn sử dụng nguồn năng lượng này phải đầu tư khá lớn cho hệ thống truyền tải hoặc lưu trữ điện.
Mặt khác, để duy trì thường xuyên an toàn hệ thống điện và phát huy hiệu quả năng lượng tái tạo thì phải có một số nguồn điện nền ổn định, nghĩa là phải có khả năng phát liên tục 24/24 để bù đắp cho những khi không có nắng, gió thì phải có cái đó để mà chen vào.
“Việt Nam ta thì điện than, điện dầu, điện khí, sinh khối và cả thủy điện cũng được xem là nguồn điện nền. Còn ở các nước thì còn có cả điện hạt nhân. Bởi vậy, dù có đắt hơn, phát thải carbon có nhiều hơn trong ngắn hạn, chúng ta chưa có nguồn hoặc giải pháp khác thay thế thì điện chạy bằng than, bằng dầu, bằng khí vẫn được duy trì huy động để bảo đảm an toàn hệ thống điện. Chúng ta đều biết than, dầu, khí là những nguyên liệu sơ cấp và thị trường thế giới ấn định giá”, Bộ trưởng nói.
Cũng theo Bộ trưởng, mấy năm qua do đứt gãy nguồn cung cho nên giá cao dẫn đến giá thành điện năng về dầu và khí thường cao hơn các nguồn điện khác, nếu chưa tính phí chuyển tải. Điện gió, mặt trời vì không tốn tiền mua nhưng giá thành điện năng chỉ phụ thuộc vào giá thành công nghệ và thiết bị. Về lâu dài, năng lượng tái tạo có thể là nguồn điện năng có giá rẻ nhất, nếu chưa tính các phí truyền tải và lưu trữ điện.
Phân tích về cơ chế tính giá năng lượng tái tạo, Bộ trưởng cho biết, cơ sở pháp lý là căn cứ vào Luật Điện lực, Luật Giá và các nghị định của Chính phủ. Bộ Công Thương đã xây dựng khung giá được xác định trên cơ sở số liệu thống kê của 102 nhà máy điện mặt trời, 109 nhà máy điện gió đã ký hợp đồng mua, bán điện.
Đối với Việt Nam các dự án mặt trời giá FiT 2 ban hành năm 2020 của Chính phủ đã giảm 8% so với giá FiT 1 ban hành năm 2017. Vì vậy, khung giá phát điện theo Quyết định 21 của Bộ Công Thương được ban hành tháng 1/2023 là giảm khoảng 7,3% so với giá FiT 2 được ban hành năm 2020. Tỷ lệ giảm suất đầu tư của nhà máy điện mặt trời và điện gió đã được tính toán và lấy ý kiến của các chuyên gia thuộc Hội đồng tư vấn. Vì vậy, có thể khẳng định cơ chế giá cho các dự án năng lượng tái tạo chuyển tiếp như khung giá hiện hành là phù hợp với giá thế giới và thực tiễn kinh tế - xã hội trong nước.
Về vấn đề xử lý đối với dự án điện gió, mặt trời không đủ điều kiện áp giá FiT, Bộ trưởng thừa nhận có sự lãng phí, nếu hàng chục dự án điện mặt trời và điện gió được đầu tư mà chưa được khai thác, sử dụng.
Tuy nhiên, ông Diên cũng cho rằng, để không lãng phí nhưng cũng không bị xem là hợp thức hóa cái sai, thậm chí là vi phạm quy định pháp luật hiện hành thì rất cần phải có chủ trương của cấp có thẩm quyền, sự chấp nhận và nỗ lực của các chủ đầu tư, sự vào cuộc đồng bộ của các ngành chức năng và chính quyền các địa phương thì mới tháo gỡ được. Bởi hầu hết các chủ đầu tư các dự án nêu trên đã chạy đua với thời gian để hưởng giá FiT nên bỏ qua hoặc bỏ sót các khâu, các thủ tục theo quy định của pháp luật, thậm chí là vi phạm các quy định của pháp luật chuyên ngành.
Lãnh đạo Bộ Công Thương cho biết, hiện cả nước có 85 nhà máy đã ký hợp đồng mua, bán điện với EVN nhưng không đủ điều kiện hưởng giá FiT, với tổng công suất là 4.736 MW. Để có thể huy động công suất của các dự án này, tránh lãng phí bức xúc, căn cứ Luật giá, Luật Điện lực và các nghị định có liên quan, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Công Thương ban hành Thông tư 15, Quyết định 21 quy định phương pháp xác định và khung giá áp dụng cho các dự án năng lượng tái tạo chuyển tiếp. Bộ cũng đã có nhiều văn bản đôn đốc các chủ đầu tư hoàn thiện thủ tục, chỉ đạo, hướng dẫn EVN khẩn trương phối hợp với nhà đầu tư thỏa thuận, thống nhất giá điện để sớm đưa các dự án này vào vận hành.
Tuy nhiên, theo Bộ trưởng Diên, đến ngày 30/3, tức là sau 2 tháng quyết định khung giá có hiệu lực chỉ có 1 nhà đầu tư đến nộp hồ sơ, qua nhiều nỗ lực của Bộ Công Thương, từ gặp gỡ, đối thoại với các chủ đầu tư, các bên liên quan, ban hành các văn bản chỉ đạo EVN thì đến 31/5, tức là đến chiều hôm qua đã có 59/85 nhà máy với công suất 3389 MW, chiếm 71,6% số dự án đã nộp hồ sơ tới EVN, trong đó có 50 dự án đang được đề xuất giá tạm thời bằng 50% khung giá để tiếp tục hoàn thiện các thủ tục.
Hiện còn 26 nhà máy với công suất là 1.346 MW chiếm 28,4% số dự án vẫn chưa gửi hồ sơ tới EVN. Theo tiết lộ của Bộ trưởng, lý do chủ đầu tư gửi chậm hồ sơ là không muốn đàm phán với EVN trong khung giá được Bộ Công Thương ban hành, vì cho là thấp hoặc một số chủ đầu tư có thể chưa hoàn thiện các thủ tục pháp lý hoặc nhà máy ở vị trí khó khăn về truyền tải điện.
Việt Nam mua điện từ năm 2010
Về vấn đề nhập khẩu điện của Việt Nam, theo Bộ trưởng, chủ trương mua bán điện nước ngoài được quy định tại Luật Điện lực và các nghị định có liên quan, việc nhập khẩu điện là chiến lược dài hạn dựa trên các mối quan hệ chính trị, quốc phòng, an ninh của Việt Nam đối với các nước láng giềng, nhằm bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia trong mọi tình huống và được xác định trong quy hoạch phát triển điện lực quốc gia trong từng thời kỳ.
Từ năm 2015 Việt Nam đã là nước nhập khẩu năng lượng tịnh, đã nhập than, nhập dầu để phát điện và sắp tới thì sẽ nhập khí LNG.
Theo Bộ trưởng, việc nhập khẩu điện đã thực hiện từ nhiều năm trước, với Trung Quốc là từ năm 2010, với Lào từ năm 2016. Việc nhập khẩu điện từ Lào cũng được thể hiện thông qua Hiệp định phát triển hợp tác công trình năng lượng và mỏ, biên bản ghi nhớ giữa Chính phủ 2 nước nhằm tăng cường quan hệ toàn diện với bạn. Nhập khẩu điện của Lào không chỉ là quan hệ kinh tế mà còn là quan hệ chính trị, ngoại giao và để bảo đảm mục tiêu quốc phòng, an ninh của đất nước.
Bộ trưởng cũng khẳng định, nguồn điện nhập khẩu thời gian qua luôn có trong cơ cấu nguồn điện của các quy hoạch phát triển điện lực quốc gia được duyệt. Tuy nhiên, tỷ lệ nhập khẩu điện còn rất nhỏ, mới chỉ có 572 MW bằng 0,73% công suất đặt hệ thống năm 2022, mà chỉ dành cho các khu vực biên giới.
Điều đặc biệt, theo Bộ trưởng, nhập khẩu điện từ Lào là điện sạch, điện nhập khẩu từ các nước ngoài là điện sạch, bởi vì nếu có phát thải thì phát thải ở nơi sản xuất.
Cùng với đó, nhập khẩu điện thời gian qua chỉ để cung cấp cho khu vực biên giới nên rẻ hơn giá điện năng lượng tái tạo trong nước, nếu phải cộng chi phí truyền tải, hao hụt đường dây từ miền Trung, miền Nam ra Bắc thì lại rất cao. Hệ thống truyền tải điện từ các nhà máy điện trong nước ra biên giới của chúng ta hiện chưa đồng bộ, chưa thuận lợi bằng hệ thống điện của nước bạn đến biên giới của 2 nước.
"Nhập khẩu điện, kết nối lưới điện và trao đổi điện năng với các nước trong khu vực là cần thiết, nhằm đa dạng hóa loại hình nguồn điện, nhất là điện nền để trong tương lai chúng ta có thể khai thác, phát triển được năng lượng tái tạo trong khi chưa có những nguồn điện nền khách thay thế”, người đứng đầu ngành Công Thương khẳng định.
email: [email protected], hotline: 086 508 6899