Phó tổng giám đốc Deloitte Việt Nam:

Chậm trễ triển khai, Việt Nam sẽ bỏ lỡ cơ hội giành quyền đánh thuế tối thiểu toàn cầu

24/02/2023, 11:10
báo nói -

TCDN - Ông Thomas McClelland, Phó tổng giám đốc phụ trách Dịch vụ Tư vấn Thuế, Deloitte Việt Nam cho rằng, trong trường hợp Việt Nam không có những hành động ngay hoặc chậm trễ trong việc triển khai thuế tối thiểu toàn cầu, Việt Nam sẽ bỏ lỡ cơ hội giành quyền đánh thuế và không thu được phần thuế bổ sung.

Ông Thomas McClelland, Phó tổng giám đốc phụ trách Dịch vụ Tư vấn Thuế, Deloitte Việt Nam đã có những chia sẻ với Tạp chí Tài chính doanh nghiệp liên quan đến thuế tối thiểu toàn cầu.

Nhiều nước trên thế giới đã có những hành động để chuẩn bị thực hiện thu thuế tối tiểu toàn cầu vào năm 2024, ông có thể chia sẻ cụ thể hơn về tình hình này?

Chính phủ các nước đầu tư và nhận đầu tư đều đã và đang có những động thái quyết liệt trong việc cân nhắc và đưa ra các chính sách liên quan đến Thuế tối thiểu toàn cầu. Gần đây, vào ngày 15/12/2022, Liên minh châu Âu (EU) đã chính thức thông qua kế hoạch áp dụng thuế suất tối thiểu 15% từ 2024.

Hàn Quốc cũng ban hành các quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu mới để phù hợp với các quy tắc mẫu của Trụ cột hai theo OECD BEPS 2.0 (“Trụ cột hai”) sau khi được Quốc hội Hàn Quốc thông qua vào ngày 23 tháng 12 năm 2022. Quy định này sẽ được đưa vào Đạo luật điều chỉnh thuế quốc tế và sẽ có hiệu lực từ năm 2024.

Ông Thomas McClelland, Phó tổng giám đốc phụ trách Dịch vụ Tư vấn Thuế, Deloitte Việt Nam.

Ông Thomas McClelland, Phó tổng giám đốc phụ trách Dịch vụ Tư vấn Thuế, Deloitte Việt Nam.

Chính phủ Nhật Bản cũng đã thông báo Dự thảo cải cách thuế, tiến tới việc áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu từ năm tài chính 2024 và sẽ trình Quốc Hội phê duyệt. Đây là các quốc gia có nguồn vốn đầu tư nước ngoài lớn vào Việt Nam và do đó, việc chính thức áp dụng chính sách thuế tối thiểu toàn cầu sẽ có nhiều tác động tới các doanh nghiệp có vốn đầu tư ngoài (FDI) tại Việt Nam, và tác động đã rất cận kề với thời gian áp dụng của các quốc gia khác dự kiến từ năm tài chính 2024.

Bên cạnh đó, Malaysia cũng đang rất gần với việc chính thức áp dụng chính sách Thuế tối thiểu toàn cầu từ 2024. Vào ngày 14/2/2023, trong một phần của Kế hoạch ngân sách 2023, Singapore cũng đã thông báo kế hoạch dự kiến về việc áp dụng cơ chế Thuế tối thiểu toàn cầu từ 2025. Gần đây nhất, ngày 22/2/2023, Hong Kong cũng thông báo kế hoạch tương tự về việc áp dụng Thuế tối thiểu toàn cầu từ 2025.

Hiện nay đang có 2 luồng ý kiến, thuế tối thiểu toàn cầu tác động không đáng kể tới Việt Nam và ngược lại, quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào?

Tác động của chính sách thuế tối thiểu toàn cầu đến Việt Nam đã là rất rõ ràng và cấp bách, thể hiện rõ nhất trong 2 lĩnh vực: thuế và thu hút đầu tư nước ngoài.

Về thuế, trong trường hợp Việt Nam không có những hành động ngay hoặc chậm trễ trong việc triển khai thuế tối thiểu toàn cầu, Việt Nam sẽ bỏ lỡ cơ hội giành quyền đánh thuế, vì khi đó các quốc gia đầu tư thuộc khối EU, Nhật Bản, Hàn Quốc và các quốc gia khác sẽ thực hiện thu Thuế bổ sung theo các nguyên tắc Trụ cột hai, nhiều khả năng bắt đầu từ năm 2024. Ngoài ra, Việt Nam cũng có thể không thu được phần Thuế bổ sung, nếu phát sinh, của các Tập đoàn Việt Nam có đầu tư ra nước ngoài.

Bên cạnh đó, thuế tối thiểu toàn cầu cũng sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả thu hút đầu tư nước ngoài của các chính sách ưu đãi thuế hiện tại của Việt Nam cho các Tập đoàn đa quốc gia thuộc phạm vi áp dụng. Nếu Việt Nam không có những cải cách hợp lý và kịp thời về chính sách ưu đãi thuế, trong trường hợp các đối thủ cạnh tranh là các quốc gia đang thu hút và nhận đầu tư nước ngoài cân nhắc các biện pháp và chính sách ưu đãi đầu tư thuận lợi để thích ứng với thuế tối thiểu toàn cầu, Việt Nam có thể bị bỏ lại phía sau trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Khi đó, không chỉ các doanh nghiệp đa quốc gia lớn mà cả các doanh nghiệp vệ tinh, doanh nghiệp phụ trợ thuộc chuỗi giá trị có thể chuyển dịch đầu tư từ Việt Nam sang các quốc gia khác hoặc quyết định không mở rộng đầu tư tại Việt Nam.

Tôi cho rằng những bước đi chủ động gần đây của Malaysia và Singapore trong việc dự kiến triển khai Trụ cột hai và cơ chế Thuế tối thiểu nội địa đạt tiêu chuẩn (“QDMTT - Qualified Domestic Minimum Top-up Tax”) là những “tín hiệu cảnh báo” ban đầu cho Việt Nam.

Ông có gợi ý gì cho trong việc xây dựng cơ chế thu thuế tối thiểu toàn cầu tại Việt Nam?

Tôi nghĩ rằng, để bảo vệ nguồn thu thuế, Việt Nam có thể cân nhắc giải pháp trước mắt về việc áp dụng cơ chế Thuế tối thiểu nội địa đạt tiêu chuẩn - QDMTT để giành quyền thu phần Thuế bổ sung trước các quốc gia khác. QDMTT có thể hiểu đơn giản là một cơ chế nội địa trong đó việc tính toán lợi nhuận thặng dư (“excess profits”) và thuế tối thiểu được áp dụng tương đương với các quy định tại Trụ cột hai theo hướng dẫn của OECD. Đây là biện pháp mà một số quốc gia như Hong Kong, Singapore, Malaysia đã công bố ý định áp dụng.

thue-toi-thieu-1

Mặc dù được coi là biện pháp phản ứng nhanh trong bối cảnh Trụ cột hai, việc áp dụng QDMTT cũng cần được cân nhắc thận trong trên nhiều yếu tố. Đầu tiên, không phải doanh nghiệp nào tại Việt Nam cũng nằm trong phạm vi áp dụng của Trụ cột hai mà chỉ các doanh nghiệp thuộc Tập đoàn đa quốc gia có quy mô doanh thu hợp nhất toàn cầu hàng năm trên 750 triệu EUR, theo đó đối tượng áp dụng QDMTT cần được cân nhắc kỹ vì việc QDMTT cho tất cả các doanh nghiệp có thể gây tác động tiêu cực đến các doanh nghiệp không thuộc phạm vi Trụ cột hai mà đang được hưởng các chính sách ưu đãi hiện hành tại Việt Nam.

Ngoài ra, nếu áp dụng QDMTT, việc tính toán Thu nhập GloBE (GloBE income) cũng như Thuế được bao gồm (Covered tax) có thể sẽ rất phức tạp và tốn kém, do đó cần được cân nhắc giữa lợi ích mà QDMTT đem lại so với chi phí quản lý hành chính có thể phải bỏ ra.

Việt Nam có thể áp dụng các cơ chế thuế tối thiểu nội địa khác mà không phải Thuế tối thiểu nội địa đạt tiêu chuẩn (ví dụ áp dụng trực tiếp thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp ở mức 15% mà không áp dụng cơ chế tính toán như của QDMTT).

Tuy nhiên nếu áp dụng cơ chế thuế tối thiểu nội địa khác QDMTT, do các nguyên tắc tính toán không tương đồng, các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng có thể phải nộp thêm thuế tại Việt Nam đồng thời vẫn phải nộp Thuế bổ sung tại quốc gia khác, gây khó khăn trong việc tính toán và kê khai thuế.

Liên quan đến việc hạn chế các ảnh hưởng tiêu cực đến việc thu hút đầu tư nước ngoài, Việt Nam nên ban hành các cơ chế, chính sách ưu đãi theo chi phí nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp đang áp dụng ưu đãi thuế chịu tác động từ Trụ cột hai. Hiện tại, các chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam chưa đa dạng, chỉ tập trung chủ yếu vào các ưu đãi theo thu nhập (income-based incentives) như ưu đãi về thuế suất và miễn giảm thuế, chưa phổ biến các ưu đãi theo chi phí (expenditure-based incentives), đặc biệt là hình thức ưu đãi trợ cấp bằng tiền (cash grants).

Thời gian gần đây, nhiều quốc gia nghiên cứu và thực hiện ưu đãi trợ cấp bằng tiền, theo ông trong bối cảnh tài chính Việt Nam hiện nay, chính sách ưu đãi trên liệu có ảnh hưởng tới thu chi ngân sách không?

Dưới sự tác động của thuế tối thiểu toàn cầu, các giải pháp liên quan đến đến ưu đãi theo chi phí, đặc biệt là ưu đãi bằng tiền (cash grant) nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng đang được nhiều quốc gia nghiên cứu và cân nhắc. Ưu đãi bằng tiền có thể theo diện hỗ trợ một phần chi phí của nhà đầu tư vào các cơ sở vật chất máy móc nhà xưởng, nhân lực, hoặc đầu tư vào NC&PT, sở hữu trí tuệ.

Chính phủ một số quốc gia như Nhật Bản, Singapore, Đài Loan hay các quốc gia Châu Âu như Bỉ, Đức, Anh, Ý, Hy Lạp, Hà Lan… đã và đang cung cấp các khoản ưu đãi bằng tiền mặt cho các doanh nghiệp thực hiện các dự án trong một số lĩnh vực nhất định như NC&PT, đổi mới công nghệ, bảo vệ và phát triển môi trường bền vững, phát triển năng lượng mới, sử dụng năng lượng hiệu quả. Đây được đánh giá là một biện pháp khá hiệu quả trong việc thúc đẩy sự phát triển của các lĩnh vực ưu tiên.

Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng việc cân nhắc ưu đãi bằng tiền hoặc tương đương nên được xem xét trên cả khía cạnh ưu điểm và nhược điểm trong bối cảnh của Việt Nam.

Về mặt ưu điểm, trước hết loại hình ưu đãi này có tác dụng hỗ trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi thuế tối thiểu toàn cầu. Tại Việt Nam, nhiều doanh nghiệp thuộc các tập đoàn đa quốc gia lớn, chịu ảnh hưởng của Trụ cột hai, đang được hưởng các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp do đáp ứng điều kiện ưu đãi về đầu tư trong địa bàn ưu tiên, lĩnh vực ưu tiên, hoặc quy mô đầu tư lớn, với mức thuế suất áp dụng thấp hơn nhiều so với mức thuế tối thiểu toàn cầu 15%. Các ưu đãi này sẽ không còn nhiều tác dụng khi Trụ cột hai áp dụng do phát sinh thêm thuế phải nộp bổ sung, cộng thêm với việc doanh nghiệp thường phát sinh chi phí đầu tư lớn ban đầu cho cơ sở vật chất, nhân lực,… sẽ gây bất lợi lớn cho hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư tại Việt Nam. Do đó, việc áp dụng cơ chế ưu đãi bằng tiền nhằm hỗ trợ một phần chi phí đầu tư sẽ giúp doanh nghiệp giảm bớt gánh nặng, khuyến khích các hoạt động đầu tư thực chất và mang tính dài hạn.

Ngoài lợi ích cho doanh nghiệp, cơ chế ưu đãi bằng tiền cũng sẽ có lợi cho Việt Nam trên nhiều khía cạnh. Đầu tiên, cơ chế này sẽ giúp đa dạng hóa các chính sách ưu đãi đầu tư hiện tại, giúp môi trường đầu tư của Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn để thu hút các nhà đầu tư lớn. Hình thức ưu đãi bằng tiền cũng sẽ giúp tạo ra cơ sở kinh tế ổn định, hạn chế tình trạng chuyển dịch lợi nhuận hoặc đầu tư ngắn hạn như đối với ưu đãi theo lợi nhuận.

Bên cạnh đó, mặc dù các khoản ưu đãi bằng tiền có thể sẽ phát sinh việc phải trả trước từ ngân sách, nhưng sẽ có ưu điểm là dễ ước tính hơn dựa trên giá trị đầu tư, không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, ngoài ra có thể được thiết kế theo hướng chi trả nhiều lần để phù hợp cho việc hoạch định ngân sách. Đáng chú ý là việc áp dụng ưu đãi bằng tiền cũng đang và sẽ được cân nhắc bởi các quốc gia tương tự Việt Nam, ví dụ như Thái Lan, Malaysia, trong việc tiếp tục thu hút và giữ chân các nhà đầu tư nước ngoài, do đó sẽ ảnh hưởng bất lợi đến môi trường thu hút đầu tư của Việt Nam trong trường hợp các chính sách hỗ trợ bằng tiền này được triển khai.

Mặc dù vậy, ưu đãi bằng tiền cũng cần được xem xét thấu đáo từ một số góc độ. Vấn đề đầu tiên là ảnh hưởng của ưu đãi này lên ngân sách quốc gia. Đây là quan ngại chính của các quốc gia đang phát triển do vấn đề ngân sách hạn chế và khó khăn trong việc phát sinh chi trả trước. Tuy nhiên, tôi cho rằng, nếu cải cách hệ thống thuế hợp lý để tăng nguồn thu từ thuế tối thiểu toàn cầu, Việt Nam sẽ có thể tận dụng chính nguồn thu này để thêm ngân sách hỗ trợ cho cơ chế ưu đãi bằng tiền.

Một vấn đề khác được đặt ra là việc ban hành cơ chế ưu đãi mới có thể tăng thêm các thủ tục hành chính về mặt quản lý, ví dụ như các thủ tục xin áp dụng ưu đãi, thủ tục xét duyệt, quản lý hành chính, cũng như hậu kiểm để đảm bảo cơ chế ưu đãi được thực hiện hợp lý, đúng mục tiêu, không phát sinh thất thoát.

Ngoài ra, cơ chế ưu đãi bằng tiền hoặc tương đương cũng cần tuân thủ theo các cam kết quốc tế của Việt Nam và cần được nghiên cứu kỹ càng khi đối chiếu với các quy định của OECD …

Thanh Phương (thực hiện)
Bạn đang đọc bài viết Chậm trễ triển khai, Việt Nam sẽ bỏ lỡ cơ hội giành quyền đánh thuế tối thiểu toàn cầu tại chuyên mục Thuế & cuộc sống của Tạp chí Tài chính doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác:

email: [email protected], hotline: 086 508 6899

Bình luận

Tin liên quan

Nhanh chóng áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu giúp tăng thu ngân sách
Từ năm 2024, một số quốc gia sẽ áp dụng mức thuế suất tối thiểu toàn cầu 15% với các công ty lớn. Trong bối cảnh đó, Việt Nam cần nhanh chóng đưa ra khung pháp lý, cũng như mức thuế và chính sách ưu đãi để tận dụng được lợi thế từ chính sách này, góp phần tăng thu ngân sách nhà nước.
Việt Nam đang xây dựng khung pháp lý áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu
Theo Phó thủ tướng Lê Minh Khái, Tổ công tác đặc biệt đang được kiện toàn nhân sự để nhanh chóng xây dựng khung pháp lý nội luật về thuế thu nhập doanh nghiệp liên quan đến việc áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu của OECD, để đảm bảo các chính sách ưu đãi đối với nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Các nước thực hiện thỏa thuận thuế tối thiểu toàn cầu thế nào?
Bà Annett Perschmann-Taubert, Tax Partner PWC cho hay, các quốc gia và Chính phủ trong khu vực và trên toàn cầu đang phân tích các quy định mới để xác định cách họ có thể thay đổi luật thuế trong nước nhằm giảm đến mức tối thiểu sự tác động của thuế tối thiểu toàn cầu và tiếp tục thu hút đầu tư nước ngoài.