CROWD FUNDING - Xu hướng tài trợ mới cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam hiện nay
TCDN - Sự ra đời và phát triển của Công nghệ Tài chính Fintech trên thế giới và ở Việt Nam trong thời gian qua đã cung cấp các hình thức huy động vốn mới cho các doanh nghiệp này. Trong đó phải kể đến nền tảng Crowdfunding - được biết đến với tên “gọi vốn cộng đồng”.
Tóm tắt
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) ở Việt Nam hiện đang chiếm tỷ trọng rất lớn trong toàn bộ khu vực doanh nghiệp. Sự năng động, sáng tạo, ham học hỏi và tư duy mở của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã và đang trở thành động lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, các DNNVV hiện đang gặp khó khăn trong huy động vốn từ các ngân hàng thương mại đặc biệt từ sau khủng hoảng tài chính 2008 - 2009. Sự ra đời và phát triển của Công nghệ Tài chính Fintech trên thế giới và ở Việt Nam trong thời gian qua đã cung cấp các hình thức huy động vốn mới cho các doanh nghiệp này. Trong đó phải kể đến nền tảng Crowdfunding - được biết đến với tên “gọi vốn cộng đồng”. Mặc dù nền tảng Crowdfunding đã rất phát triển trên thế giới và đáp ứng được nhu cầu vốn lớn cho các DNNVV, song ở Việt Nam, hình thức này vẫn còn hạn chế. Bài viết thực hiện phân tích vai trò của nền tảng Crowdfunding trong việc tài trợ vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phân tích thực trạng phát triển Crowdfunding tại Việt Nam đồng thời đưa ra một số gợi ý nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền tảng Crowdfunding ở Việt Nam hiện nay.
1. Khái quát về FinTech
Công nghệ Tài chính - Fintech:
Công nghệ Tài chính (Financial Technology - Fintech) là một trong những đổi mới sáng tạo bậc nhất trong lĩnh vực công nghiệp tài chính và đang phát triển với tốc đô nhanh dựa trên nền tảng kinh tế chia sẻ và công nghệ thông tin (Lee và Shin, 2018). Fintech được kỳ vọng sẽ thúc đẩy sự phát triển của khu vực tài chính thông qua việc cắt giảm chi phí, tăng chất lượng các dịch vụ tài chính, tăng mức độ đa dạng hóa và tạo nên một khu vực tài chính ổn định. Sự phát triển công nghệ trong cơ sở hạ tầng, Dữ liệu lớn, phân tích dữ liệu và thiết bị thông minh cho phép các doanh nghiệp khởi nghiệp Fintech trở nên cạnh tranh so với các tổ chức tài chính truyền thống. Điều nay buộc các tổ chức tài chính truyền thống phải mở rộng đầu tư vào công nghệ để giữ vững được thị phần.
Theo báo cáo hàng năm về Fintech của KPMG (2015), Trung Quốc và Mỹ là hai quốc gia dẫn đầu về số lượng các công ty và công ty khởi nghiệp Fintech. Sự phát triển của Fintech trên toàn thế giới đã thay đổi cách thức dự trữ, tiết kiệm, vay nợ, đầu tư, sử dụng và bảo vệ tiền của các cá nhân và tổ chức.
Theo Lee và Shin (2018) có 6 mô hình kinh doanh Fintech bao gồm thanh toán (payment), quản lý tài sản (wealthy management), gọi vốn cộng đồng (crowdfunding), cho vay (marketplace lending), thị trường vốn (capital market) và dịch vụ bảo hiểm (insurance services). Trong đó, gọi vốn cộng đồng là một trong những mô hình kinh doanh Fintech góp phần tạo nên xu hướng tài trợ vốn mới cho các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Crowdfunding:
Theo Ủy ban Châu Âu (2016), Crowdfunding (tạm dịch là Gọi vốn cộng đồng) là hình thức gọi vốn từ cộng đồng nhằm mục đích tăng quỹ cho một dự án cụ thể. Nền tảng của Crowdfunding là các trang web cho phép kết nối trực tiếp giữa người gọi vốn và nhà tài trợ. Theo World Bank (2013), Crowdfunding là một cách thức tăng vốn cho các doanh nghiệp và các tổ chức thông qua mạng Internet dưới hình thức gây quỹ hoặc đầu tư từ rất nhiều cá nhân trong nền kinh tế. Theo GPFI (2016), Crowdfunding được dùng để chỉ kỹ thuật tài trợ dựa theo thị trường (market-based financing technique) - nơi các dòng vốn nhỏ đến một số lượng lớn các cá nhân trong nền kinh tế. Crowdfunding dựa trên nền tảng các web trực tuyến và điện thoại thông minh để kết nối những người cho vay tài trợ cho một doanh nghiệp, một dự án hoặc các nhu cầu về vốn khác. Tóm lại, có ba yếu tố quan trọng tạo nên Crowdfunding: (1) lượng vốn nhỏ; (2) đến từ nhiều cá nhân hoặc tổ chức; (3) dựa trên nền tảng công nghệ số.
Theo Kirby và Worner (2014), Crowdfunding có thể được phân loại thành 4 nhóm chính:
Thứ nhất, gây quỹ từ thiện (donation): đây là một hình thức mà tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ vận động quyên góp giúp đỡ vùng thiên tai, người có hoàn cảnh đặc biệt.
Thứ hai, gọi vốn cộng đồng trên cơ sở quà tặng (rewards-based crowdfunding): đây là hình thức mà các doanh nghiệp nhỏ đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp (startup) kêu gọi hỗ trợ vốn từ các cá nhân, đổi lại các cá nhân sẽ nhận được một phần quà. Dạng gọi vốn này không phải là vay nợ truyền thống mà được sử dụng nhằm mục đích tăng sức hấp dẫn cho dự án hoặc thâm nhập thị trường.
Thứ ba, gọi vốn thông qua bán cổ phần (equity crowdfunding): hình thức này tương tự như việc mua cổ phiếu của một doanh nghiệp mới có tiềm năng. Hình thức gọi vốn cộng đồng này có quy mô tương đối nhỏ trên toàn cầu song đã có mức tăng trưởng ấn tượng trong những năm gần đây. Ở châu Mỹ, 598.05 triệu USD cổ phần đã được bán thông qua nền tảng Crowdfunding năm 2015 (tăng trưởng 120% so với năm 2014). Ở châu Âu, gọi vốn bằng cách bán cổ phần đạt mức 422 triệu EUR (tương đương 467 triệu USD) năm 2015.
Thứ tư, gọi vốn bằng cách vay nợ (debt crowdfunding): đây là hình thức cho phép người cho vay kết nối trực tiếp với người gọi vốn hoặc đầu tư vào các nghĩa vụ nợ thông qua nền tảng công nghệ. Jenik và cộng sự (2017) đã phân loại gọi vốn cộng đồng dựa trên vay nợ thành 3 dạng: cho vay phi lợi nhuận, cho vay định hướng xã hội và cho vay thương mại. Theo đó, người gọi vốn trên nền tảng phi lợi nhuận sẽ tiếp cận với người cho vay mà không kỳ vọng vào lợi nhuận tài chính. Các doanh nghiệp khởi nghiệp xã hội thường gọi vốn vay cộng đồng dưới hình thức này. Cho vay định hướng xã hội nhằm tài trợ cho các cộng đồng hoặc vùng địa lý cụ thể và vẫn tạo cơ hội hưởng lợi tức cho người cho vay. Ví dụ, nền tảng MYC4 cho phép nhà tài trợ cho vay tiền đối với các DNNVV ở các quốc gia đang phát triển tại châu Phi trong một vài lĩnh vực cụ thể. Cho vay thương mại không hướng tới nhóm tài trợ cụ thể nào hay không tạo ra tác động xã hội, ví dụ như CreditEase ở Trung Quốc, RainFin tại Nam Phi, Crowdo ở Malaysia hay LendingClub ở Mỹ.
2. CrowdFunding - Xu hướng tài trợ mới cho các DNNVV
DNNVV (SMEs) được xem là một trong những nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế ở cả những quốc gia phát triển và đang phát triển. Chính sự năng động, tư duy mở và ham học hỏi đã giúp các SMEs này dễ dàng tiếp cận với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, từ đó góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của toàn bộ khu vực doanh nghiệp và thúc đẩy sự năng động, sáng tạo của cả nền kinh tế. Tầm quan trọng của khu vực SMEs được thể hiện thông qua những đóng góp vào tăng trưởng việc làm, sản lượng đầu ra, kim ngạch xuất khẩu và thúc đẩy tinh thần doanh nhân.
Theo Keskin và cộng sự (2010), khu vực SMEs đóng góp hơn 55% GDP và hơn 65% tổng lao động ở các nền kinh tế thu nhập cao. Ở các quốc gia thu nhập thấp, SMEs đóng góp 60%GDP và 70% tổng lao động. Con số này ở các nước có thu nhập trung bình lần lượt là 70% và 95%.
Mặc dù có vai trò quan trọng như vậy trong nền kinh tế song các SMEs gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận vốn so với các doanh nghiệp lớn do quy mô nhỏ, mức độ đa dạng hóa thấp và không đáp ứng yêu cầu về tài sản đảm bảo. Đặc biệt, kể từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới giai đoạn 2008 - 2009, hoạt động cho vay của ngân hàng đối với SMEs đã có nhiều thay đổi. Các ngân hàng trở nên thận trọng hơn khi cho vay với loại hình doanh nghiệp này do nguy cơ đối mặt với rủi ro cao hơn trong điều kiện kinh tế phục hồi chậm chạp. Các SMEs tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn trong huy động vốn.
Trong điều kiện các SMEs khó tiếp cận vốn từ các ngân hàng thương mại, huy động vốn trực tuyến trở nên dễ dàng hơn đối với các SMEs. Sự phát triển của Crowdfunding đã và đang tạo ra sự cạnh tranh mới đối với hoạt động của các ngân hàng truyền thống, không những góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính, nâng cao năng lực cạnh tranh mà còn giúp làm tăng lợi nhuận cho các SMEs (Fenwick và cộng sự, 2017). Ngoài ra sự xuất hiện của các hình thức cho vay mới còn góp phần làm giảm rủi ro hệ thống và tăng mức độ đa dạng hóa sản phẩm tài trợ.
Dưới đây là những lý do tại sao các SMEs có thể dễ dàng huy động vốn thông qua nền tảng Crowdfunding hơn các phương thức truyền thống như vay ngân hàng.
Thứ nhất, Crowdfunding thu hút sự tham gia của nhiều nhà đầu tư có vốn. Nguyên nhân là do Crowdfunding mang lại mức lợi tức cao hơn cho nhà đầu tư so với gửi tiết kiệm. Họ được tự lựa chọn các dự án để tài trợ dựa trên thông tin các doanh nghiệp cung cấp. Ngoài ra việc chia vốn huy động thành các gói nhỏ với lượng tiền khác nhau đã hấp dẫn cả những nhà đầu tư có ít vốn. Tất nhiên, đi kèm với lợi tức cao là rủi ro lớn. Do vậy, đầu tư với lượng tiền lớn thường phù hợp với những nhà tài trợ ưa thích rủi ro hoặc đã có sự chuẩn bị kỹ càng trước sự biến động mạnh của lợi tức.
Thứ hai, các doanh nghiệp có thể tiếp cận vốn với chi phí thấp hơn so với các sản phẩm cho vay truyền thống. Chi phí vận hành nền tảng giao dịch trực tuyến thấp hơn so với chi phí vận hành của một ngân hàng thương mại. Các ngân hàng phải đầu tư chi phí lớn cho cơ sở vật chất, đội ngũ nhân viên, xây dựng thương hiệu... Do vậy, chi phí của khoản vay thông qua ngân hàng sẽ cao hơn so với nền tảng Crowdfunding.
Thứ ba, các SMEs đặc biệt là các doanh nghiệp startup dễ dàng tiếp cận được vốn đầu tư thông qua Crowdfunding hơn so với khoản vay của ngân hàng. Để đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh, các ngân hàng xây dựng một quy trình cấp tín dụng chặt chẽ, đòi hỏi cao về tài sản đảm bảo và tính hiệu quả của dự án đầu tư.
Trong khi đó, thông qua nền tảng Crowdfunding, khoản tài trợ được sự đồng thuận từ cả hai phía (các nhà đầu tư có vốn và doanh nghiệp cần vốn), nhà đầu tư sẽ chủ động lựa chọn các dự án mà họ kỳ vọng có khả năng tăng trưởng trong tương lai.
Thứ tư, Crowdfunding mang lại sự tiện lợi cho nhà tài trợ và người gọi vốn cả về thời gian và thủ tục giấy tờ. Nền tảng trực tuyến hoạt động 24/7, không phân biệt không gian và khoảng cách địa lý, cần ít giấy tờ tài liệu và cho phép quá trình vay và hoàn trả diễn ra nhanh chóng.
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích, nhà tài trợ thông qua nền tảng Crowdfunding cũng phải đối mặt với không ít rủi ro. Trong đó rủi ro lớn nhất là rủi ro mất vốn. Các ngân hàng với quy trình tín dụng chặt chẽ còn phải đối mặt với rủi ro tín dụng, do vậy, tài trợ thông qua Crowdfunding, mức độ rủi ro mất vốn sẽ cao hơn rất nhiều. Trong trường hợp khách hàng không trả được nợ, các ngân hàng thương mại còn có thể phát mãi tài sản đảm bảo để thu hồi vốn (trừ những sản phẩm cho vay tín chấp). Trong khi đó, các nhà tài trợ thông qua nền tảng Crowdfunding không nắm giữ bất kỳ tài sản nào của người gọi vốn, một khi dự án thất bại, các nhà tài trợ có thể sẽ mất đi toàn bộ số vốn của mình (điều này sẽ còn phụ thuộc vào hợp đồng được ký kết giữa chủ dự án và nhà tài trợ). Để tự giảm thiểu rủi ro tín dụng cho mình, điều quan trọng nhất là các nhà tài trợ phải có đầy đủ thông tin để tìm hiểu về người gọi vốn và đánh giá chính xác khả năng tăng trưởng của doanh nghiệp trong tương lai. Tuy nhiên, việc minh bạch thông tin vẫn là một trong những vấn đề chưa được giải quyết triệt để trong nền tảng Crowdfunding. Thậm chí, ở hầu hết các quốc gia, nhà tài trợ không được tiếp cận với lịch sử vay nợ của người gọi vốn. Hiện nay, trên thế giới chỉ có ở hai quốc gia là Mỹ và Trung quốc, nhà tài trợ biết được thông tin về lịch sử vay nợ của người gọi vốn trên nền tảng công nghệ Crowdfunding. Một rủi ro nữa hoàn toàn có thể xảy ra đó là trục trặc công nghệ khiến nền tảng Crowdfunding mất toàn bộ dữ liệu về khoản vay. Mặc dù hợp đồng vay nợ giữa nhà tài trợ và doanh nghiệp gọi vốn là bằng chứng cho khoản vay, song cũng tốn nhiều thời gian để khôi phục lại thông tin liên quan đến khoản giải ngân, số tiền hoàn trả và lãi vay.
3. Thực trạng huy động vốn Thông qua nền tảng CrowdFunding của SMEs tại Việt Nam
Người gọi vốn: Cần minh bạch thông tin về dự án cũng như thông tin cá nhân về chủ dự án cho cộng đồng nếu muốn gọi vốn thành công, cần lựa chọn nền tảng Crowdfunding uy tín, có kinh nghiệm gọi vốn cộng đồng thành công cho nhiều dự án. Người gọi vốn cần cụ thể hóa cách thức gọi vốn: thông qua quà tặng hay bán cổ phần hay vay nợ. Cần xây dựng hợp đồng gọi vốn với các điều khoản cụ thể về quyền lợi và trách nhiệm của mỗi bên để tăng thêm lòng tin của nhà đầu tư/nhà tài trợ đối với dự án.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (2017), tính đến 1/1/2017, cả nước có 518.000 doanh nghiệp thực tế đang tồn tại, trong đó số lượng doanh nghiệp lớn chiếm 1,9% tổng số doanh nghiệp, giảm 2,3% so với năm 2012, doanh nghiệp vừa tăng 23,6%, doanh nghiệp nhỏ tăng 21,2%, doanh nghiệp siêu nhỏ tăng 65,5%, chiếm 74% tổng số doanh nghiệp. Cũng như tình hình chung của SMEs trong huy động vốn được trình bày ở phần 2, SMEs ở Việt Nam cũng khó khăn trong việc tiếp cận vốn vay ngân hàng. Điều này sẽ làm giảm hiệu quả và tính năng động của loại hình doanh nghiệp này. Mặc dù số liệu của Tổng cục Thống kê chỉ ra tỷ trọng áp đảo của SMEs trong khu vực doanh nghiệp, song nếu các SMEs không được hỗ trợ về vốn để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh thì đóng góp cho nền kinh tế chung của cả nước sẽ bị hạn chế.
Chính vì vậy, sự ra đời và phát triển của Fintech trong đó có nền tảng Crowdfunding sẽ mang lại các hình thức tài trợ mới cho SMEs tại Việt Nam. IG9 là nền tảng Crowdfunding lần đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam vào tháng 04/2013. IG9 sau đó đã gọi vốn cộng đồng thành công cho 40 dự án với quy mô từ 7-15 triệu đồng cho một dự án. Tuy nhiên sau một thời gian hoạt động, trang web này đã âm thầm đóng cửa vào năm 2014. Sau IG9, một số nền tảng Crowdfunding khác đã đi vào hoạt động như FirstStep, Comicola, Fundstart, Charity Map, Betado, Fundingvn. Tuy nhiên cho tới thời điểm hiện tại, chỉ còn ba nền tảng hoạt động chuyên nghiệp là Comicola, Betado và Fundstart.
Comicola là trang gây quỹ chuyên dành cho mảng truyện tranh. Theo thông tin trên website của Comicola, nền tảng này đã gọi vốn thành công được 9 dự án xuất bản truyện tranh với tổng số vốn lên tới 1.293.905.000 đồng. Trong đó có một số dự án gọi vốn thành công vượt cả số vốn kỳ vọng ban đầu. Ví dụ: dự án Hoa Văn Đại Việt kêu gọi được 141.390.000 đồng, vượt 41%; hay dự án xuất bản cuốn sách Pop-Up “Sài Gòn Phố” kêu gọi được 240.775.200 đồng, vượt 61% so với số vốn dự định ban đầu. Hình thức của các dự án Crowdfunding qua trang Comicola là gọi vốn cộng đồng dựa trên quà tặng. Dự án chia thành các gói nhỏ tương ứng với số tiền và phần quà sẽ tặng cho khách hàng đóng góp.
Betado là nền tảng gọi vốn cộng đồng với mục tiêu tạo cơ hội đưa các sản phẩm sáng tạo của người Việt ra thị trường. Được thành lập vào năm 2015, tiền thân là dự án gây quỹ cộng đồng cho tập 1 và tập 2 cuốn truyện tranh “Truyền thuyết Long Thần Tướng”, Betado đã nhanh chóng phát triển và trở thành nền tảng gọi vốn cộng đồng lớn nhất Việt Nam cả về giá trị vốn huy động lẫn số lượng các dự án thành công. Cho tới thời điểm hiện tại, Betado đã gọi vốn thành công 13 dự án với tổng số vốn huy động được là 1.604.340.000 đồng.
Fundstart chính thức đi vào hoạt động hỗ trợ huy động vốn c ho các dự án sáng tạo vào tháng 04/2016. Nền tảng này hoạt động dựa trên mô hình gọi vốn cộng đồng dựa trên quà tặng. Chủ dự án chia sẻ ý tưởng cùng Fundstart, cộng đồng yêu thích sẽ ủng hộ tiền thông qua hệ thống của nền tảng Crowdfunding trong một thời hạn nhất định. Nếu chiến dịch gọi vốn thành công, chủ dự án phải đảm bảo quyền lợi cho người ủng hộ vốn và tặng quà cho họ theo cam kết đã được đăng tải trên nền tảng gọi vốn và hợp đồng đã ký kết. Nếu chiến dịch không thành công, tiền vốn được trả lại cho người ủng hộ. Tới thời điểm hiện tại, nền tảng Fundstart đã gọi vốn thành công cho 4 dự án với số tiền huy động đạt mức 287.239.000 đồng.
Ngoài ba trang đang hoạt động chuyên nghiệp như trên còn có nền tảng Fundingvn đang trong quá trình thử nghiệm. Fundingvn ra đời với mục tiêu chính là kết nối các dự án với cộng đồng nhà đầu tư trên cơ sở giải quyết các vấn đề về vốn và phát triển kinh doanh. Theo thông tin trên website Funding.vn, các chủ dự án có thể đăng tải các dự án lên website, các dự án này sẽ được xét duyệt và thẩm định kỹ càng bởi các chuyên gia trước khi đến với cộng đồng/nhà đầu tư nhằm giảm thiểu tối đa các rủi ro cho cộng đồng/nhà đầu tư. Tổng số dự án gọi vốn được công bố trên website là 88 dự án, tuy nhiên, trong giai đoạn hiện tại, Fundingvn chưa chính thức đi vào huy động vốn thật mà chỉ tập trung vào hợp tác với startup Wheel để giúp các dự án có trải nghiệm về mô hình, có sự chuẩn bị kỹ về kiến thức và cách thức tiến hành chiến dịch, làm tiền đề cho việc gọi vốn thành công sau này. Mỗi một cá nhân đăng ký tham gia sẽ được cấp một tài khoản ảo trị giá 30.000.000 đồng để có vốn tài trợ cho các dự án mình kỳ vọng.
Như vậy, có thể thấy mặc dù nền tảng Crowdfunding đã phát triển trên thế giới song ở Việt Nam vẫn còn mới mẻ với hình thức chủ yếu là gọi vốn cộng đồng thông qua quà tặng, đồng thời tổng số vốn huy động thông qua các nền tảng gọi vốn chuyên nghiệp như Comicola, Betado hay Fundstart vẫn còn rất khiêm tốn. Sở dĩ gọi vốn cộng đồng thông qua quà tặng được lựa chọn chủ yếu là do bản chất của hình thức này là pre-sale (hàng được bán trước khi được sản xuất) và nhà tài trợ cảm thấy yên tâm hơn khi số tiền mình bỏ ra sẽ nhận lại được một phần quà. Các hình thức gọi vốn cộng đồng còn lại đặc biệt thông qua bán cổ phần và cho vay thậm chí còn chưa được triển khai ở Việt Nam. Có thể kể đến hai nguyên nhân chính như sau:
Thứ nhất là do tâm lý e ngại rủi ro của nhà đầu tư/nhà tài trợ Việt Nam trong điều kiện khung pháp lý về hình thức gọi vốn này chưa được ban hành để bảo vệ quyền lợi cho các bên tham gia;
Thứ hai là do tâm lý e ngại minh bạch thông tin về dự án của người gọi vốn trong điều kiện vấn đề bản quyền công nghệ và ý tưởng ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Dự án không rõ ràng, cụ thể thì khó huy động được vốn, trong khi nếu dự án được trình bày chi tiết quá sẽ có thể bị sao chép.
Hoạt động của nền tảng Crowdfunding được coi là hiệu quả nếu thành công trong chiến dịch gọi vốn từ cộng đồng cho các dự án. Do vậy, bên cạnh việc có các chuyên gia lựa chọn dự án tiềm năng, công tác Marketing, quảng bá dự án là một trong những hoạt động quan trọng nhất góp phần tạo nên thành công của một chiến dịch gọi vốn.
4. Một số đề xuất
Xuất phát từ xu thế phát triển của Fintech nói chung và Crowdfunding nói riêng trên thế giới và Việt Nam, xuất phát từ việc khó tiếp cận vốn vay ngân hàng của các SMEs ở Việt Nam và xuất phát từ thực trạng phát triển hạn chế của nền tảng Crowdfunding ở Việt Nam hiện nay, tác giả đưa ra một số đề xuất đối với cả cơ quan quản lý nhà nước, nhà tài trợ, người gọi vốn và đơn vị cung cấp dịch vụ (nền tảng) nhằm phát triển Crowdfunding trở thành kênh gọi vốn hiệu quả cho SMEs ở Việt Nam. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, đối với cơ quan quản lý Nhà nước: Cần sớm ban hành khung pháp lý đối với Crowdfunding nhằm xây dựng địa vị pháp lý cho tổ chức cung cấp dịch vụ gọi vốn cộng đồng, xây dựng nguyên tắc hoạt động, quy định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên tham gia. Điều này sẽ bảo vệ quyền lợi của các nhà tài trợ/nhà đầu tư, từ đó, tâm lý e ngại rủi ro sẽ được giảm thiểu và các nhà tài trợ/nhà đầu tư sẽ sẵn sàng tham gia nhiều hơn vào các nền tảng gọi vốn. Không những thế, việc ban hành khung pháp lý đối với Crowdfunding còn giúp cơ quan quản lý Nhà nước quản lý tốt hơn hoạt động của các nền tảng này từ đó góp phần ổn định khu vực tài chính.
Ví dụ về trách nhiệm của bên gọi vốn như: Pháp luật cần quy định bên gọi vốn phải đảm bảo tính trung thực và chịu trách nhiệm với mọi thông tin cung cấp cho cộng đồng. Bên gọi vốn phải đảm bảo thực hiện dự án đúng tiến độ, đúng mục đích như đã cam kết, cần phải chi tiết cách thức hoàn trả cho nhà tài trợ như quà tặng hoặc vốn và lãi vay...
Thứ hai, đối với nhà tài trợ/nhà đầu tư: Cần tìm hiểu chi tiết thông tin về dự án, thông tin về người gọi vốn, tránh đầu tư một cách cảm tính và theo đám đông. Cần nghiên cứu kỹ hợp đồng tài trợ với người gọi vốn để nắm rõ quyền lợi của mình khi đầu tư vào dự án và trách nhiệm của người gọi vốn khi dự án không thành công.
Thứ ba, đối với người gọi vốn: Cần minh bạch thông tin về dự án cũng như thông tin cá nhân về chủ dự án cho cộng đồng nếu muốn gọi vốn thành công, cần lựa chọn nền tảng Crowdfunding uy tín, có kinh nghiệm gọi vốn cộng đồng thành công cho nhiều dự án. Người gọi vốn cần cụ thể hóa cách thức gọi vốn: thông qua quà tặng hay bán cổ phần hay vay nợ. Cần xây dựng hợp đồng gọi vốn với các điều khoản cụ thể về quyền lợi và trách nhiệm của mỗi bên để tăng thêm lòng tin của nhà đầu tư/nhà tài trợ đối với dự án.
Thứ tư, đối với các đơn vị cung cấp dịch vụ gọi vốn cộng đồng (hay đối với các nền tảng Crowdfunding): Hoạt động của nền tảng Crowdfunding được coi là hiệu quả nếu thành công trong chiến dịch gọi vốn từ cộng đồng cho các dự án. Do vậy, bên cạnh việc có các chuyên gia lựa chọn dự án tiềm năng, công tác Marketing, quảng bá dự án là một trong những hoạt động quan trọng nhất góp phần tạo nên thành công của một chiến dịch gọi vốn. Các nền tảng Crowdfunding cần xây dựng được đội ngũ nhân viên hội tụ đủ ba điều kiện sau: giỏi công nghệ (để xây dựng nền tảng, hạn chế rủi ro công nghệ), giỏi tài chính (để lựa chọn dự án tiềm năng), giỏi Marketing (để thu hút nhà đầu tư/tài trợ cho dự án). Mặc dù các đơn vị cung cấp dịch vụ hạn chế trách nhiệm sau khi chiến dịch gọi vốn thành công, song trong giai đoạn đầu phát triển nền tảng Crowdfunding tại Việt Nam, các đơn vị này cần trở thành trung gian kết nối hiệu quả giữa nhà tài trợ và người gọi vốn, giám sát và công khai quá trình sử dụng vốn để tăng thêm niềm tin đối với các nhà đầu tư.
5. Kết luận
Fintech và Crowdfunding đang trở thành xu hướng phát triển mới ở các quốc gia trên toàn thế giới. Việt Nam không thể nằm ngoài xu hướng này, thậm chí Việt Nam cần biết tận dụng cơ hội, đón đầu xu hướng để thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính trong nước và hội nhập với quốc tế. Ngoài ra, thúc đẩy sự phát triển Fintech và Crowdfunding còn tạo điều kiện cho SMEs, doanh nghiệp khởi nghiệp có thêm kênh huy động vốn hiệu quả với chi phí thấp, từ đó thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Trong điều kiện nền tảng Crowdfunding ở Việt Nam vẫn còn kém phát triển, số lượng các đơn vị cung cấp dịch vụ gọi vốn chuyên nghiệp còn quá ít và chủ yếu tập trung vào hình thức gọi vốn thông qua quà tặng, cần thiết phải có những động lực để thúc đẩy nền tảng này ở Việt Nam. Đầu tiên phải kể đến sự cần thiết xây dựng khung pháp lý cho gọi vốn cộng đồng, xây dựng địa vị pháp lý cho các nền tảng gọi vốn, quy định trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi bên tham gia. Ngoài ra, các nhà tài trợ/nhà đầu tư cũng cần phải tự trang bị thông tin cần thiết để bảo hiểm rủi ro cho chính mình khi tham gia hình thức đầu tư này, người gọi vốn cần minh bạch hóa thông tin nếu muốn dự án thành công và các đơn vị cung cấp dịch vụ gọi vốn cần đảm bảo đủ ba điều kiện: giỏi công nghệ, giỏi tài chính, giỏi Marketing và trở thành trung gian hiệu quả giữa người gọi vốn và nhà tài trợ. Có như thế, nền tảng Crowdfunding mới thực sự trở thành kênh huy động vốn hiệu quả bên cạnh các phương thức huy động truyền thống.
Tài liệu tham khảo
1. European Commisstion (2016), “Crowdfunding in the EU Capital Markets Union”, Brussels: European Commission.
2. Fenwick, M., Vermeulen, E., McCahery, J.A. (2017), “Fintech and the Financing of Entrepreneurs From Crowdfunding to Marketplace Lending”, Law Working Paper No 369/2017.
3. GPFI (Global Partnership for Financial Inclusion) (2016), “Global Standard-Setting Bodies and Financial Inclusion: The Evolving Landscape”, www.gpfi.org/sites/default/files/documents/GPFI_WhitePaper_Mar2016.pdf
4. Jenik, I., Lyman.T, B. and Nava, A.(2017), “Crowdfunding and Financial Inclusion”, CGAP Working Paper March 2017.
5. Keskin, H., Senturk, C., Sungur, O., Kiris, H. (2010), “The Importance of SMEs in Developing Economies”, 2nd International Symposium on Sustainable Development, June 8-9 2010, Sarajevo
6. Kirby, E. and Worner, S. (2014), “Crowdfunding: An Infant Industry Growing Fast”, Madrid: IOSCO, http://www.iosco.org/research/pdf/swp/Crowd-funding-AnInfant-Industry-Growing-Fast.pdf
TS. Lương Thị Thu Hằng - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
email: [email protected], hotline: 086 508 6899