Giải pháp phát triển Fintech tại Việt Nam

29/08/2024, 16:17

TCDN - Thị trường Fintech ở Việt Nam đang phát triển khá sôi động trong sự cạnh tranh mạnh mẽ của các Ngân hàng và doanh nghiệp phi ngân hàng, góp phấn thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế số. Tuy nhiên, hoạt động này cũng đang đặt ra nhiều vấn đề cần được giải quyết.

4-1

Tóm tắt:

Phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới và khu vực trong cuộc cách mạng 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay, Fintech đang phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam. Các Ngân hàng thương mại Việt Nam đang ứng dụng, triển khai mạnh mẽ công nghệ dịch vụ tài chính và các hoạt động kinh doanh của mình. Các doanh nghiệp cũng đầu tư mạnh mẽ vào Fintech. Thị trường Fintech ở Việt Nam đang phát triển khá sôi động trong sự cạnh tranh mạnh mẽ của các Ngân hàng và doanh nghiệp phi ngân hàng, góp phấn thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế số. Tuy nhiên, hoạt động Fintech ở Việt Nam cũng đang đặt ra rất nhiều vấn đề cần được giải quyết để thúc đẩy phát triển bền vững, hiệu quả hơn nữa. Bài viết tập trung vào các nội dung nói trên và đưa ra một số khuyến nghị có liên quan.

Giới thiệu nghiên cứu

Fintech chính là công nghệ tài chính, được sử dụng ngay từ những năm của thập kỷ 90 do Tập đoàn Citigroup của Mỹ khởi xướng, với việc thành lập “Hiệp hội Công nghệ dịch vụ tài chính”, mục đích tạo điều kiện cho các hoạt động hợp tác về công nghệ. Thuật ngữ Fintech được sử dụng để miêu tả các mô hình kinh doanh sáng tạo và công nghệ mới nổi có khả năng biến đổi ngành dịch vụ tài chính. Fintech là lĩnh vực kinh tế mới đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới dưới tác động của cuộc cách mạng công nghệ 4.0. Các đổi mới, sáng tạo tài chính trên nền tảng công nghệ số đã tạo ra các mô hình kinh doanh mới các công nghệ quản lý mới và các sản phẩm tài chính mới. Những thay đổi này đã tạo nên những tác động to lớn, mạnh mẽ đến tất cả các hoạt động của các tổ chức tài chính, thị trường tài chính, các hoạt động cung cấp các dịch vụ tài chính và cả cơ quan quản lý Nhà Nước. Mặc dù đã có những bước phát triển đáng kể trong những năm qua nhưng Fintech tại Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn phát triển sơ khai với nhiều vấn đề cần phải khắc phục, song đây là lĩnh vực mà Việt Nam có nhiều triển vọng và tiềm năng phát triển.

Nội dung nghiên cứu

1. Tổng quan phát triển Fintech tại Việt Nam

Hiện nay tại Việt Nam, Fintech vẫn đang trong giai đoạn đầu phát triển ở dưới mức tiềm năng do hệ sinh thái chưa có sự liên kết chặt chẽ giữa các chủ thể, như: Chính phủ, tổ chức tài chính và các doanh nghiệp Fintech, quỹ đầu tư, hạ tầng tài chính - viễn thông... Khuôn khổ pháp lý quản lý lĩnh vực Fintech chưa đầy đủ và đồng bộ. Tuy nhiên, hoạt động Fintech tại Việt Nam đã chứng kiến sự phát triển nhanh vượt bậc cả về mặt số lượng, sự đa dạng trong sản phẩm, dịch vụ và thu hút vốn đầu tư.

Số lượng các công ty Fintech đã tăng gấp gần 4 lần trong những năm gần đáy. Nếu như tại thời điểm cuối năm 2016 trong cả nước mới có khoảng 40 công ty Finteh, thì đến cuối năm 2023 con số này đã tăng lên trên 150 công ty. Các công ty Fintech Việt Nam hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau; trong đó có 37 doanh nghiệp trung gian thanh toán (TGTT) và ví điện tử, chiếm 24%; 25 công ty P2P Lending – Cho vay ngang hàng, chiếm 16%; 22 công ty mảng chuỗi khối, tiền số và chuyển tiền (Blockchain, Crypto & Remittance), chiếm 14%. Các doanh nghiệp còn lại được phân lẻ sang nhiều lĩnh vực khác: công ty sử dụng internet, điện thoại di động, công nghệ điện toán đám mây và các phần mềm mã nguồn mở nhằm mục đích nâng cao hiệu quả của hoạt động ngân hàng và đầu tư, mà đa số là cá công ty khởi nghiệp. Trong số các Fintech tại Việt Nam hiện nay thì có khoảng 70% là công ty khởi nghiệp. Tính chung, tổng cộng có 48% công ty tham gia vào hoạt động thanh toán, cung cấp cho khách hàng và các nhà bán lẻ các dịch vụ thanh toán trực tuyến hoặc các giải pháp thanh toán kỹ thuật số, như: 2C2P, VTPay, OnePay, VTCPay, BankPlus, VinaPay, VNPay, Senpay, NganLuong, ZingPay, BaoKim, 123Pay…[VBNA (2023 - 2024)]

Một số ít công ty hoạt động trong lĩnh vực gọi vốn (FundStart, Comicola, Betado, Firststep), chuyển tiền (Matchmove, Cash2vn, Nodestr, Remittance Hub), Blockchain (Bitcoin Vietnam, VBTC Bitcoin, Copyrobo, Cardano Labo), quản lý tài chính cá nhân, quản lý POS, quản lý dữ liệu, cho vay và so sánh thông tin (Mobivi, Money Lover, Timo, kiu, Loanvi, Tima, TrustCircle, Hottab, SoftPay, ibox, BankGo, gobear…). Công ty phục vụ người tiêu dùng, cung cấp các công cụ kỹ thuật số giúp cải thiện các phương án các cá nhân vay mượn, quản lý tiền bạc, tài trợ vốn cho các startup: Ví điện tử, công nghệ sổ cái phân tán trên nền tảng blockchain, thương mại trực tuyến B2C, mPOS…[VBNA (2023 - 2024)]

Tại Việt Nam, Fintech thu hút được sự quan tâm đặc biệt của các tập đoàn công nghệ thông tin, viễn thông lớn, như: FPT, Viettel, VNPT…qua các hoạt động trực tiếp và gián tiếp như đầu tư hình thành các công ty Fintech, thành lập các quỹ đầu tư, vườn ươm hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp Fintech… Viettel, VNPT đã được NHNN cấp phép đưa vào hoạt động Mobile Money trong quý 4/2021. [VBNA (2023 - 2024)]

2. Phát triển Fintech trong lĩnh vực ngân hàng

Bên cạnh những doanh nghiệp nói trên, các Ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam cũng tập trung nguồn lực để nghiên cứu, đầu tư và phát triển các công nghệ mới ứng dụng vào dịch vụ của mình như mã hóa thông tin thẻ (Tokenization), thanh toán thẻ chíp tiếp xúc và phi tiếp xúc (contact và contactless), thanh toán trên thiết bị di động (Mobile Payment), QR và eKYC …

Với việc triển khai nói trên, nhiều sản phẩm, dịch vụ thanh toán hiện đại mang lại nhiều trải nghiệm và lợi ích cho khách hàng đã được liên tục ra đời. Hiện nay, khách hàng có thể sử dụng được nhiều dịch vụ ngân hàng hơn trên thiết bị di động so với đến giao dịch trực tiếp; giao dịch thanh toán thông qua hai kênh điện thoại di động và Internet có mức tăng trưởng ấn tượng.

Về thanh toán trên thiết bị di động tại Việt Nam, như điện thoại di động, Ipad, Laptop đạt tốc độ tăng trưởng mạnh hàng năm, bình quân lên tới 90% về số lượng giao dịch và 150% về giá trị thanh toán. Nhiều NHTM đạt tốc độ tăng trưởng trên 90% giá trị giao dịch thanh toán điện tử được khách hàng thực hiện trên kênh số. [SBV (2023-2024)]

Tính đến nay, trong cả nước, có gần 95% tổ chức tín dụng (TCTD) tại Việt Nam đã có, đang xây dựng hoặc dự tính sẽ xây dựng chiến lược chuyển đổi số. Hiện nay cũng có khoảng 80 NHTM triển khai dịch vụ Internetbanking, 44 ngân hàng cung cấp dịch vụ Mobile Banking. [SBV (2023-2024)]

Xu hướng hợp tác giữa Fintech và Ngân hàng vẫn là xu hướng chính và chủ đạo trong những năm qua tại Việt Nam. Theo khảo sát sơ bộ, hợp tác giữa Fintech và Ngân hàng chiếm tới hơn 90% số lượng các công ty Fintech; cụ thể như đối với lĩnh vực trung gian thanh toán, 100% các công ty trung gian thanh toán do NHNN cấp giấy phép hoạt động đều hợp tác với các ngân hàng trong quá trình hoạt động cung ứng dịch vụ. Đối với các lĩnh vực khác, qua khảo sát của NHNN cho thấy, sự hợp tác giữa Fintech và Ngân hàng cũng rất chặt chẽ trên cơ sở đôi bên cùng có lợi, dựa trên những lợi thế riêng của từng bên để mang lại các sản phẩm, dịch vụ với nhiều trải nghiệm hơn, chất lượng hơn và quan trọng là chi phí hợp lí hơn cho khách hàng.

3. Tiềm năng phát triển của Fintech tại Việt Nam

Việt nam là một quốc gia có tỷ lệ dân số trẻ ở mức cao, khả năng nắm bắt xu thế nhanh, lại rất được các nhà đầu tư quốc tế quốc tế quan tâm, trong khi đó Fintech lại là hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Điều này tạo cơ hội rất lớn cho Fintech trong nước có cơ hội phát triển mạnh mẽ hơn. Thực tế là trong những năm gần đây, các lĩnh vực hoạt động của ngành công nghệ tài chính đang có tốc độ tăng trưởng nhanh chóng

Việt Nam có tiềm năng phát triển Fintech rất lớn, cụ thể là các doanh nghiệp công nghệ lớn như FPT, Viettel, VNPT quan tâm, hỗ trợ cũng đang rất quan tâm đầu tư cho hoạt động khởi nghiệp về công nghệ tài chính. Với tốc độ tăng trưởng như hiện tại, dự báo đến năm 2022, giá trị giao dịch của thị trường Fintech Việt Nam tăng lên mức 10-11 tỷ USD và tăng mạnh hơn vào những năm sau đó.

Mặc dù Fintech rất có tiềm năng và có nhiều cơ hội để phát triển nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều thách thức, đòi hỏi các chủ doanh nghiệp phải luôn sẵn sàng “chiến đấu” để vượt qua được những thách thức trong ngành kinh tế mới này.

4. Những thách thức của Fintech Việt Nam

Hiện nay tại Việt Nam vẫn chưa có những công ty Fintech quy mô lớn, chưa có các chính sách thuế ưu đãi đối với nhà đầu tư thiên thần và đầu tư mạo hiểm như một số trung tâm Fintech trên thế giới. Điều này tạo ra nhiều thách thức cho sự phát triển của ngành đầu tư tài chính có cơ hội thu lợi nhuận cao.

Một phần nguyên nhân hạn chế sự phát triển của Fintech là do khuôn khổ pháp lý còn sơ khai, chủ yếu là một số đề án mang tính vĩ mô và quy định về thanh toán vẫn còn chưa đồng bộ. Tại Việt Nam, hầu như chưa có khuôn khổ pháp lý quy định rõ về bản chất sản phẩm, dịch vụ, các tiêu chuẩn của sản phẩm/dịch vụ; Mô hình hoạt động, địa vị pháp lý, các điều kiện thành lập và hoạt động của công ty Fintech; Bảo vệ người tiêu dùng sản phẩm tài chính, bảo vệ thông tin cá nhân.

Việt Nam hiện vẫn còn là quốc gia đang phát triển, mặc dù có nguồn lao động trẻ lại nhạy bén khi tiếp cận với lĩnh vực mới nhưng với nền kinh tế chưa thực sự phát triển nên cơ sở hạ tầng công nghệ vẫn yếu kém. Do đó vẫn chưa thể đáp ứng được yêu cầu của nền tảng công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ bảo mật. Thêm vào đó là người sử dụng hệ thống không có ý thức bảo mật thông tin cá nhân như: họ và tên, số chứng minh nhân dân, hộ chiếu, địa chỉ, ngày tháng năm sinh, số tài khoản…  Chính những vấn đề này đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của những người tham gia vào hoạt động Fintech.

Ngoài ra, các vấn đề về mô hình kinh doanh, kỹ năng quản trị và chiến lược phát triển trung – dài hạn của các doanh nghiệp hầu như chưa có nên các doanh nghiệp này chỉ hoạt động được trong thời gian ngắn và rất khó khăn để lớn mạnh và tiếp tục phát triển xa hơn. Đồng thời, nhiều người vẫn cảm thấy Fintech là ngành nghề mới lạ, chưa hiểu hết về ngành nghề đã gây ra nhiều hoang mang với các các nhà đầu tư và người tham gia vào hoạt động tài chính Fintech.

Khuyến nghị giải pháp hoàn thiện hệ sinh thái Fintech tại Việt Nam

Một là, cần hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước về hoạt động Fintech

Cần khẩn trương bổ sung và hoàn thiện thêm chức năng quản lý nhà nước Fintech của một số cơ quan quản lý đối với lĩnh vực tài chính - ngân hàng hiện nay, cụ thể: NHNN là cơ quan quản lý lĩnh vực ngân hàng và Bộ Tài chính (cụ thể hơn là Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm) là cơ quan quản lý lĩnh vực chứng khoán và bảo hiểm. Chính phủ cần quy định cụ thể về thể chế quản lý, cơ quan quản lý cũng như quy định rõ về quyền hạn và trách nhiệm để xử lý các vấn đề liên quan tới các lĩnh vực Fintech tại hai Nghị định nêu trên.

Hai là, xây dựng khuôn khổ pháp lý đối với lĩnh vực Fintech

Thứ nhất, xây dựng cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực Fintech đối với các dịch vụ, mô hình chưa có khuôn khổ pháp lý điều chỉnh

Chính phủ cần có cơ chế quản lý cho hoạt động thử nghiệm của các công ty Fintech, qua đó cơ quan quản lý có thể quản lý, giám sát các hoạt động được giới hạn của công ty Fintech, hạn chế tối đa các hoạt động vi phạm pháp luật, đồng thời bảo vệ được lợi ích của người sử dụng dịch vụ.

Thứ hai, rà soát và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý đối với các lĩnh vực/dịch vụ cụ thể của Fintech:

Đối với hoạt động thanh toán: Việc xây dựng, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho Fintech trong lĩnh vực thanh toán (điển hình là dịch vụ trung gian thanh toán - TGTT) cần được tiếp tục rà soát và hoàn hiện. Hoạt động cung ứng dịch vụ TGTT gắn liền với các kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Trong bối cảnh công nghệ mới ngày càng phát triển được ứng dụng vào các mô hình, nghiệp vụ mới (ngoài các dịch vụ thanh toán gắn với tài khoản hiện nay với một ví điện tử lưu trữ trên các phương tiện điện tử đem lại nhiều tiện lợi, đơn giản, thanh toán đa dạng các hàng hóa, dịch vụ,...) đòi hỏi các chính sách, giải pháp quản lý hoạt động cung ứng dịch vụ TGTT cần phải rà soát, chỉnh sửa, bổ sung để phù hợp với thực tiễn, đáp ứng được vai trò quản lý nhà nước hiệu quả trong hoạt động này. 

- Đối với hoạt động huy động vốn và cho vay trên nền tảng công nghệ cao (P2P Lending): Hoạt động này chưa có quy định pháp luật quản lý chuyên ngành, nên cần tiến hành rà soát, sửa đổi, bổ sung nhiều quy định pháp luật có liên quan (Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật giao dịch điện tử, Luật an ninh mạng...) và cần sự phối hợp, tham gia của nhiều Bộ, ngành có liên quan.

- Đối với giải pháp dịch vụ liên quan e-KYC: Việc triển khai e-KYC trên cơ sở áp dụng công nghệ mới, hướng tới các giao dịch trực tuyến có nguồn cung cấp thông tin định danh khách hàng rất đa dạng, có thể dẫn tới việc mỗi đơn vị cung cấp sẽ có một quy trình thực hiện e-KYC khác nhau khiến gây lãng phí chi phí, không thống nhất. Do đó, đòi hỏi việc xây dựng quy trình e-KYC áp dụng chung cho các dịch vụ tài chính - ngân hàng. Trong đó, cần quy định cụ thể về việc điều chỉnh, bổ sung quy định về chia sẻ, xác thực thông tin khách hàng giữa các tổ chức tín dụng với nhau hoặc cho phép chia sẻ thông tin liên quan tới khách hàng cho một tổ chức cung cấp và xác minh thông tin định danh khách hàng điện tử để thiết lập một dữ liệu điện tử về nhận biết khách hàng.

 Đối với vấn đề Open API: Để triển khai Open-API cần sửa đổi các quy định, pháp lý hiện hành như:

+ Sửa đổi quy định về thông tin bí mật nhà nước trong ngành Ngân hàng; theo đó, loại bỏ một số thông tin khỏi danh mục bí mật nhà nước, các thông tin này cần được xác định là thông tin cá nhân và được điều chỉnh theo các quy định về bảo vệ bí mật thông tin cá nhân chứ không nên bị ràng buộc phải tuân thủ các quy định về bảo vệ bí mật nhà nước trong quá trình lưu trữ, cung cấp, sử dụng thông tin.     

+ Sửa đổi quy định, cho phép bên thứ ba được phép truy xuất thông tin liên quan với sự đồng ý của khách hàng. Mở rộng phạm vi cung cấp thông tin là các thông tin liên quan đến tiền gửi và tài sản của khách hàng.

- Đối với công nghệ Blockchain: Trong ngắn hạn, NHNN cần sớm cho phép một số NHTM thử nghiệm các ứng dụng công nghệ Blockchain trong một phạm vi cho phép tại các ngân hàng, để các ngân hàng vừa ứng dụng, vừa nghiên cứu, đúc kết ra những hiệu quả của công nghệ Blockchain với ngân hàng mình, từ đó từng bước ứng dụng rộng rãi hơn công nghệ này trong tương lai. Bên cạnh đó, NHNN cũng sẽ nắm bắt được cụ thể hơn những khó khăn, vướng mắc của các NHTM khi triển khai công nghệ Blockchain để cùng tháo gỡ, xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp cho tương lai.

Ba là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống mạng lưới hỗ trợ đổi mới, sáng tạo của các doanh nghiệp startup nói chung và startup trong lĩnh vực Fintech nói riêng

Trung tâm đổi mới sáng tạo Fintech (Fintech Innovation Hub) đóng vai trò quan trọng trong phát triển hệ sinh thái Fintech của bất kỳ quốc gia nào. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, các quốc gia có hệ sinh thái Fintech phát triển như Mỹ, Anh, Singapore, Đức… đều thành lập Trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp/Trung tâm đổi mới sáng tạo (Innovation Hub), trong đó có sự tham gia và phối hợp chặt chẽ giữa Chính phủ và khu vực tư nhân (các tập đoàn, tổng công ty, các nhà đầu tư thiên thần,…), có thể kể đến như CyberPort - Fintech Hub của Hồng Kông; Fintech Innovation Lab “Looking Glass” của Singapore; Tech Quartier của Đức…

Trong bối cảnh của Việt Nam hiện nay, để phát triển hệ sinh thái Fintech cạnh tranh và bền vững trong dài hạn, hỗ trợ hoạt động của các doanh nghiệp Fintech (bao gồm cả các công ty đang trong giai đoạn phát triển ban đầu - early stage và các công ty đã có giải pháp sẵn sàng cung ứng ra thị trường - mature stage), trên cơ sở nghiên cứu, đúc kết kinh nghiệm quốc tế của các quốc gia đã triển khai thành công, việc thành lập Fintech Innovation Hub tại Việt Nam trong bối cảnh hiện nay là hết sức cần thiết, có thể đem lại những lợi ích thiết thực và hỗ trợ cho cộng đồng Fintech Startups.

Nguồn tài liệu tham khảo:

1. BIDV (2023-2024): Báo cáo phân tích thị trường tài chính- Trung tâm ĐT&NCKH, bản cứng, các tháng năm 2023-2024

2. Chính phủ (2023-2024): Cổng thông tin của Chính phủ: Truy cập tại: http://chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/cacchuongtrinhduan; thời gian truy cập, từ ngày 18/4 đến ngày 25/4/2024.

3. SBV (2023-2024): Cổng thông tin điện tử của Ngân hàng Nhà nước, truy cập tại       https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu; mục các văn bản quy phạm pháp luật và thông cáo báo chí, các năm 2023-2024. thời gian truy cập, từ ngày 18/4 đến ngày 25/4/2024.

4. VBNA (2023-2024): Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, truy cập tại: https://www.vbna.org.vn; thời gian truy cập, từ ngày 18/4 đến ngày 25/4/2024.

5. Vietcombank (2023-2024): Thông tin hoạt động của Vietcombank tại Báo báo thường niên, báo cáo tổng kết hoạt động hàng năm, thông tin công bố trên www.vcb.com.vn, các năm; truy cập từ ngày 18/4 đến ngày 25/4/2024.

.TCTK (2023-2024): Truy cập tại https://www.gso.gov.vn; thời gian truy cập, từ ngày 18/4 đến ngày 25/4/2024.

Vũ Việt Anh - Công ty TNHH Tư vấn PricewaterhouseCoopers

Báo in số tháng 8/2024

Bạn đang đọc bài viết Giải pháp phát triển Fintech tại Việt Nam tại chuyên mục Bài báo khoa học của Tạp chí Tài chính doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác:

email: [email protected], hotline: 086 508 6899

Tin liên quan

Mặt trái của công nghệ tài chính Fintech tại Việt Nam
Mặc dù công nghệ tài chính Fintech là xu hướng của thế giới cũng như ở Việt Nam. Tuy nhiên, theo các chuyên gia hoạt động này tiềm ẩn nhiều rủi ro từ an ninh mạng, trong khi nhận thức và giải pháp còn hạn chế.