Kiểm soát nợ công chặt chẽ, bám sát mục tiêu đề ra
TCDN - Cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công nhằm bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Bộ Tài chính.
Thưa ông, Nghị quyết 07-NQ/TW năm 2016 đã đưa ra yêu cầu cơ cấu lại ngân sách nhà nước và quản lý nợ công theo hướng bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô; tăng cường huy động, quản lý, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội... Với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước về nợ công, ông có thể cho biết những kết quả đã đạt được theo Nghị quyết 07 đề ra?
- Dưới sự điều hành quyết liệt của Chính phủ, công tác quản lý, huy động, sử dụng vốn vay và trả nợ công, nợ Chính phủ đã đạt nhiều kết quả tích cực, bám sát các mục tiêu, nhiệm vụ về quản lý nợ công theo Nghị quyết 07-NQ/TW của Bộ Chính trị cũng như các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã đề ra.
Thứ nhất, các chỉ tiêu nợ công, nợ Chính phủ được kiểm soát chặt chẽ trong giới hạn cho phép. Dự kiến tỷ lệ nợ công đến cuối năm 2018 ở mức 61,4% GDP (giảm từ mức cuối năm 2016 là 63,7% GDP, mức trần đặt ra là không quá 65%), nợ Chính phủ ở mức 52,1% GDP (mức trần là không quá 54%). Bước đầu kiềm chế tốc độ gia tăng quy mô nợ công, từ mức 18,4%/năm giai đoạn 2011-2015 xuống còn khoảng 10%/năm kể từ năm 2016 đến nay.
Thứ hai, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về nợ công: Bộ Tài chính đã tham mưu, báo cáo Chính phủ trình Quốc hội ban hành Luật Quản lý nợ công năm 2017, đáp ứng yêu cầu công tác quản lý nợ trong tình hình mới. Để bảo đảm kịp thời thi hành ngay khi Luật có hiệu lực từ 1/7/2018, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành các Nghị định hướng dẫn, tập trung vào việc quản lý chặt chẽ hạn mức nợ công; tăng cường công tác quản lý huy động, sử dụng vốn vay nợ công từ khâu xây dựng chiến lược, kế hoạch và giám sát thực hiện; tăng cường công khai, minh bạch; gắn trách nhiệm của các bộ ngành, địa phương với trách nhiệm sử dụng hiệu quả nguồn vốn vay và trả nợ công...
Thứ ba, cơ cấu lại danh mục nợ công theo hướng tập trung huy động tại thị trường trong nước, kéo dài kỳ hạn, giảm áp lực trả nợ trong ngắn hạn và chi phí vay vốn. Công tác trả nợ được tổ chức thực hiện chặt chẽ, đúng hạn theo cam kết, giữ uy tín của Chính phủ. Đối với bảo lãnh Chính phủ, siết chặt điều kiện và hạn chế tối đa việc cấp bảo lãnh mới của Chính phủ cho các khoản vay. Đồng thời, tăng cường công tác thẩm định, thực hiện biện pháp giám sát, quản lý sử dụng vốn vay lại và vốn vay có bảo lãnh Chính phủ nhằm giảm thiểu rủi ro nghĩa vụ nợ dự phòng cho ngân sách nhà nước.
Để thực hiện các mục tiêu trên, Chính phủ đã ban hành các Nghị quyết về triển khai thực hiện Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị và các Nghị quyết về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán NSNN hàng năm. Các mục tiêu, nhiệm vụ về quản lý nợ công được cụ thể hóa thông qua việc xây dựng và tổ chức triển khai các công cụ quản lý nợ chủ động, đồng bộ với điều hành chính sách tài khóa, tiền tệ, đầu tư công.
Cụ thể, Bộ Tài chính đã xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và tổ chức triển khai các kế hoạch vay trả nợ của Chính phủ và các hạn mức vay nợ hàng năm; Chương trình quản lý nợ trung hạn 2016-2018; Đề án tái cơ cấu nợ Chính phủ trong nước giai đoạn 2017-2021 nhằm thực hiện các mục tiêu đảm bảo khả năng trả nợ, tiếp tục cơ cấu lại danh mục nợ công, đảm bảo an toàn nợ công và an ninh tài chính quốc gia.
Nghị quyết 07-NQ/TW cũng đã nhấn mạnh công tác kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay và trả nợ công. Trong những năm qua, Bộ Tài chính đã triển khai nội dung này như thế nào, thưa ông?
Việc kiểm tra, giám sát sử dụng vốn vay và trả nợ công là nội dung được quan tâm, thực hiện bởi cả các cơ quan của Quốc hội, Kiểm toán Nhà nước, cũng như các đoàn thanh tra, kiểm tra giám sát của các bộ ngành, địa phương.
Công tác kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay, trả nợ công được thực hiện ngay từ khâu đề xuất, trong quá trình giải ngân, sử dụng vốn vay thực hiện dự án và sau khi hoàn thành dự án. Trong khâu đề xuất, Bộ Tài chính xác định thành tố ưu đãi, đánh giá tác động đến nợ công, xác định cơ chế tài chính của dự án cũng như phối hợp với các cơ quan liên quan thẩm định nội dung của đề xuất. Trong quá trình triển khai thực hiện dự án, việc giải ngân, rút vốn được kiểm soát bảo đảm trong dự toán, các hạn mức vay và mục đích sử dụng vốn đã được phê duyệt. Sau khi hoàn thành, dự án sử dụng vốn vay nợ công được quyết toán, kiểm toán theo quy định.
Công tác kiểm toán nhà nước về nợ công ngày càng được đề cao. Việc kiểm toán nợ công đã được Kiểm toán Nhà nước quan tâm thực hiện kiểm toán nhiều cấp/ở các mức độ khác nhau.
Trong thời gian qua, Bộ Tài chính cũng xây dựng quy chế phối hợp, cung cấp và trao đổi thông tin phục vụ cho công tác thanh tra, kiểm tra; chủ động xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra các dự án sử dụng vốn vay nợ công hàng năm. Nội dung thanh tra, kiểm tra cũng ngày càng được cải thiện nhằm đáp ứng yêu cầu công tác quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng nợ công.
Thưa ông, bên cạnh các kết quả đạt được, việc huy động, sử dụng vốn vay và quản lý nợ công còn những tồn tại nào cần khắc phục và giải pháp nào đã được đưa ra để giải quyết các tồn tại này?
-Mặc dù công tác quản lý nợ công đã đạt được một số kết quả tích cực trong thời gian qua, song cần tiếp tục được kiểm soát chặt chẽ trong thời gian tới do cân đối NSNN còn khó khăn; áp lực huy động vốn cho đầu tư phát triển rất lớn để đạt mục tiêu tăng trưởng nhanh, bền vững; bên cạnh đó chi phí vay vốn nước ngoài có xu hướng tăng do Việt Nam đã trở thành quốc gia thu nhập trung bình.
Bên cạnh đó, mặc dù các chỉ tiêu nợ vẫn trong giới hạn cho phép, tỷ trọng và tốc độ gia tăng nợ nước ngoài của Chính phủ và nợ bảo lãnh Chính phủ đã giảm, song theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, trong các năm 2017 và 2018, nợ nước ngoài của các doanh nghiệp theo hình thức tự vay tự trả tăng đột biến. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến chỉ tiêu nợ nước ngoài của quốc gia tăng nhanh, tiệm cận ngưỡng an toàn được Quốc hội cho phép.
Tuy các khoản nợ tự vay, tự trả nước ngoài của doanh nghiệp, tổ chức tín dụng không thuộc phạm vi nợ công, song đây là một cấu phần trong nợ nước ngoài của quốc gia và có ảnh hưởng quan trọng đến ổn định vĩ mô, an ninh tài chính quốc gia. Theo chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng, thực hiện các giải pháp nhằm kiểm soát các khoản vay nước ngoài tự vay, tự trả để bảo đảm chỉ tiêu này trong giới hạn cho phép.
Như vậy, trong thời gian tới, chúng ta cần tiếp tục kiểm soát chặt chẽ các chỉ tiêu an toàn nợ, nâng cao quản lý việc huy động vốn cho NSNN và cho đầu tư phát triển; thực hiện vay nợ trong phạm vi kế hoạch hàng năm được cấp có thẩm quyền phê duyệt; kiểm soát chặt chẽ việc vay về cho vay lại và bảo lãnh Chính phủ.
Bên cạnh đó, cần tiếp tục cơ cấu lại danh mục nợ công thông qua các nghiệp vụ quản lý nợ chủ động, giãn đỉnh nghĩa vụ nợ tập trung trong một số năm; tăng cường huy động nguồn lực trong nước để đáp ứng nhu cầu vay của Chính phủ, phát triển thị trường vốn trong nước.
Song song với các giải pháp nói trên, chúng ta cũng phải kiểm soát chặt chẽ các khoản vay của chính quyền địa phương và hoạt động vay nợ nước ngoài của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng theo hình thức tự vay, tự trả.
Công tác quản lý nợ công và tái cơ cấu nợ công từ nay đến cuối giai đoạn 2020 và giai đoạn 5 năm tiếp theo cần được tiếp tục triển khai đồng bộ với việc thực hiện các mục tiêu, giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh, trong đó có cơ cấu lại ngân sách nhà nước, đầu tư công, khu vực DNNN, hệ thống các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng.
Theo Baohaiquan
email: [email protected], hotline: 086 508 6899









