Nông sản xuất khẩu: Thách thức vẫn là thử thách

28/03/2019, 09:07

TCDN -
Cùng với việc siết chặt yêu cầu về chất lượng, kiểm nghiệm kiểm dịch... nhiều nước trên thế giới đang quay lại tập trung đầu tư cho phát triển nông nghiệp, khiến hoạt động sản xuất hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam gặp thách thức lớn.




Chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất hàng hóa quy mô lớn

Theo ông Nguyễn Quốc Toản, quyền Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, năm 2019 ngành nông nghiệp Việt Nam chủ yếu vẫn sản xuất nhỏ, phân tán nên chưa đáp ứng được yêu cầu về sản xuất hàng hóa quy mô lớn và tiêu chuẩn cao từ thị trường quốc tế. Trong khi đó, những thách thức, nguy cơ từ tác động của biến đổi khí hậu, môi trường, dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất trong nước và tình hình cung cầu nông sản.

Trên thị trường thế giới, xung đột thương mại giữa Hoa Kỳ - Trung Quốc, những bất ổn xung quanh vấn đề Brexit, những bất ổn địa chính trị trên thế giới cũng ảnh hưởng tới việc xuất khẩu các mặt hàng nông sản của Việt Nam.

Trong khi nhiều nước trên thế giới đều quay lại tập trung đầu tư cho phát triển nông nghiệp, kể các nước lớn như: Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU, Trung Quốc... nên các mặt hàng nông sản Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt trong xuất khẩu với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Ông Tô Ngọc Sơn, Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Á - châu Phi, Bộ Công Thương cho biết, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu nông, thủy sản quan trọng hàng đầu của Việt Nam cũng tăng cường thực hiện nghiêm các quy định đã có về truy xuất nguồn gốc, đăng ký doanh nghiệp xuất khẩu, bao bì sản phẩm. Hay Nhật Bản, Hàn Quốc và một số nước ASEAN đã và đang tăng cường áp dụng các quy định ngày càng khắt khe về kiểm dịch động thực vật nhập khẩu. Nhiều thị trường áp dụng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm có yêu cầu rất cao với các tiêu chuẩn hầu như tương đương, thậm chí cao hơn cả những tiêu chuẩn quốc tế thông thường như tại Nhật Bản.

Đổi mới phương thức sản xuất, cách tiếp cận thị trường

Để tận dụng tốt các cam kết hội nhập quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ông Tô Ngọc Sơn cho rằng, nông nghiệp Việt Nam phải thay đổi từ phương thức sản xuất, thói quen giao dịch đến cách tiếp cận thị trường đã hình thành từ lâu nay. Địa phương và doanh nghiệp cần phối hợp, triển khai quyết liệt việc tổ chức lại sản xuất các mặt hàng nông sản, thủy sản có trọng tâm, trọng điểm, có quy mô và theo hướng nâng cao chất lượng. Nông sản phải đáp ứng các yêu cầu về kiểm nghiệm, kiểm dịch, truy xuất nguồn gốc, bao bì nhãn mác hàng hóa… của thị trường nhập khẩu cụ thể.

Về mở cửa thị trường, cần xác định rõ mặt hàng ưu tiên, thị trường ưu tiên và căn cứ trên năng lực sản xuất, xuất khẩu thực tế. Các doanh nghiệp xuất khẩu cần chủ động nghiên cứu thị trường, thay đổi tư duy tiếp cận thị trường, thay đổi phương thức giao dịch từ tiểu ngạch sang thương mại chính quy, đặc biệt là đối với thị trường Trung Quốc.

Ông Nguyễn Mạnh Hùng, Chủ tịch Công ty cổ phần Nafoods Group cho rằng, chuỗi giá trị có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, các bên cần phải thực hiện liên kết để đủ năng lực đưa các sản phẩm của Việt Nam ra thị trường quốc tế. Để có thể tạo ra sản phẩm hàng hóa có chất lượng tốt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, địa phương nghiên cứu chính sách để doanh nghiệp có thể tổ chức sản xuất trên quy mô lớn. Phát triển nông nghiệp sản xuất lớn cho phép thực hiện mô hình chuỗi giá trị nông sản dưới sự liên kết mạnh mẽ giữa nông dân với doanh nghiệp. Khi sản xuất có quy mô đủ lớn doanh nghiêp mới có đủ điều kiện tăng cường đưa tiến bộ khoa học vào sản xuất để tăng năng suất, giảm giá thành và tạo ra những sản phẩm tốt.

Để tạo điều kiện đạt được những chỉ tiêu quan trọng này, Cục Chế biến và Phát triển thị trường Nông sản đề xuất, trong năm 2019, cần tập trung cho một số nhóm giải pháp nhằm khơi thông thị trường xuất khẩu nông sản. Một là đẩy mạnh việc xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia, tiến tới hài hòa hóa với các quy định của các thị trường nhập khẩu của khu vực và trên thế giới; tập trung xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu quốc gia, đồng thời phát triển và nhân rộng việc thực hiện cấp mã số vùng sản xuất, truy xuất nguồn gốc nhằm tạo tiền đề vững chắc cho các mặt hàng nông sản của Việt Nam đáp ứng khả năng cạnh tranh trong xu thế hội nhập quốc tế.

Hai là tiếp tục đàm phán mở cửa thị trường chính ngạch cho các sản phẩm hoa quả tươi, rau, thủy sản sang các thị trường có yêu cầu chất lượng cao; duy trì và phát triển bền vững thị trường Trung Quốc, mở rộng thị trường nông sản sang những nền kinh tế có cơ cấu bổ sung với Việt Nam như Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Liên minh Châu Âu hay Trung Đông; lựa chọn và đưa các sản phẩm phù hợp vào các thị trường tiềm năng như: Nga, Trung Đông, Châu Phi, ASEAN...
Đồng thời, đẩy mạnh khai thác có hiệu quả các thị trường xuất khẩu, đặc biệt là các thị trường mà Việt Nam đã ký kết FTA, tăng cường công tác tuyên truyền và tổ chức triển khai tận dụng tốt các cam kết hội nhập quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, đặc biệt là các nước tham gia Hiệp định CPTPP để thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy mạnh mẽ xuất khẩu nông sản. Đồng thời, tiếp tục đàm phán các hiệp định như Hiệp định FTA Việt Nam - Israel; Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực RCEP, Hiệp định FTA Việt Nam - EFTA.

Mặt khác, tăng cường các biện pháp tháo gỡ các rào cản kỹ thuật và rào cản thương mại của các nước nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa nông sản của Việt Nam thâm nhập vào thị trường các nước. Song song với đó, cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu, dự báo, cảnh báo đối với các biện pháp phòng vệ thương mại áp dụng lên hàng hóa nông sản xuất khẩu của Việt Nam để kịp thời chỉ đạo các giải pháp cụ thể, quyết liệt, có định hướng để tháo gỡ khó khăn...

Về tổ chức sản xuất trong nước, theo Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường, toàn ngành cần tiếp tục quyết liệt triển khai mạnh mẽ cơ cấu lại ngành nông nghiệp; phát triển cơ cấu sản xuất theo 3 trục sản phẩm chủ lực (sản phẩm chủ lực quốc gia, sản phẩm chủ lực cấp tỉnh và nhóm sản phẩm là đặc sản địa phương gắn với chỉ dẫn địa lý).

Tiếp tục đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất, xây dựng các vùng nguyên liệu sản xuất tập trung; đẩy mạnh liên kết phát triển tổ hợp tác, hợp tác xã; thu hút đầu tư doanh nghiệp tư nhân; xây dựng các mô hình theo chuỗi; khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư xây dựng các chuổi siêu thị, cửa hàng tiện ích, các chợ… để thúc đẩy tiêu thụ trong nước. Đồng thời, tiếp tục nâng cao năng lực chế biến nông sản, bảo quản, đóng gói, bao bì, nhãn mác để nâng cao giá trị sản phẩm.

Song song với đó, ngành nông nghiệp phải thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ, triển khai các giải pháp tận dụng tối đa cơ hội của cách mạng công nghiệp 4.0; phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ. Đồng thời, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tiếp tục rà soát, bãi bỏ, cắt giảm thủ tục hành chính và các điều kiện kinh doanh; tiếp tục đàm phán để tháo gỡ rào cản thương mại và rào cản kỹ thuật của các nước đối với hàng hóa nông sản của Việt Nam; thường xuyên tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại, giới thiệu và quảng bá các sản phẩm nông nghiệp là thế mạnh của Việt Nam ra thị trường trong nước và thế giới.



Thu Hoài - Tạp chí TCDN số 3/2019
Bạn đang đọc bài viết Nông sản xuất khẩu: Thách thức vẫn là thử thách tại chuyên mục Thị trường của Tạp chí Tài chính doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác:

email: [email protected], hotline: 086 508 6899

Bình luận