Phát triển bền vững chuỗi giá trị nghêu

04/12/2018, 10:12

TCDN - Sản xuất và chế biến thủy sản nói chung và mặt hàng nghêu nói riêng là nguồn sinh kế quan trọng, góp phần cải thiện thu nhập và kinh tế cho khoảng 1,5 triệu cơ sở sản xuất quy mô nhỏ.

Tuy nhiên, hiện những người sản xuất quy mô nhỏ, các doanh nghiệp chế biến nhỏ và vừa trong chuỗi giá trị nghêu đang đối mặt với một số thách thức lớn. Đó là năng lực, kỹ thuật sản xuất còn hạn chế và chưa bền vững.

(Ảnh minh hoạ)

Có mặt tại 42 thị trường

Theo Báo cáo của Tổng cục Thuỷ sản, năm 2017, diện tí́ch nuôi nghêu cả nước đạt 19.100 ha với sản lượng đạt hơn 179 nghìn tấn. Tập trung tại các tỉnh khu vực phí́a Bắc và Đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, khu vực phí́a Bắc chủ yếu tập trung tại Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, khu vực ĐBSCL chủ yếu tập trung tại các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau.

Sản phẩm nghêu xuất khẩu của Việt Nam hiện đã có mặt tại 42 thị trường trên thế giới, hiện thị trường xuất khẩu chủ yếu là EU, Mỹ, Bắc Mỹ, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha. Năm 2017, giá trị xuất khẩu nghêu của Việt Nam đạt hơn 62 triệu USD.

Sản xuất và chế biến thủy sản nói chung và mặt hàng nghêu nói riêng là nguồn sinh kế quan trọng góp phần cải thiện thu nhập và kinh tế cho khoảng 1,5 triệu cơ sở sản xuất quy mô nhỏ.

Hiện Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh là 3 tỉnh có vùng nuôi nghêu lớn của cả nước. Riêng sản phẩm nghêu của Bến Tre từ năm 2009 đã được chứng nhận MSC, đây là một thành công lớn giúp sản phẩm nghêu mở rộng thị trường tiêu thụ sang các nước châu Âu, Bắc Mỹ, Tây Ban Nha, Hàn Quốc… Nhờ đó, giá bán sản phẩm cũng tăng từ 25 - 30%, đời sống người dân được cải thiện. Việc mở rộng vùng đạt chứng nhận MSC và gắn kết sản xuất theo chuỗi là rất cần thiết hiện nay. Được biết, toàn tỉnh có 4.000ha nuôi nghêu, sản lượng nghêu hàng năm của tỉnh đạt 4.500 - 5.000 tấn và con nghêu mang lại cho tỉnh bình quân 75 tỷ đồng/năm.

Bên cạnh những kết quả tí́ch cực trong hoạt động sản xuất, chế biến và xuất khẩu, những người sản xuất quy mô nhỏ, các doanh nghiệp chế biến nhỏ và vừa đang đối mặt một số thách thức lớn. Đó là năng lực, kỹ thuật sản xuất còn hạn chế và chưa bền vững. Hầu hết sản phẩm của các hộ dân chỉ là sản phẩm thô hoặc được sơ chế với chất lượng, giá trị thấp. Các doanh nghiệp chế biến nhỏ và vừa chỉ gia tăng một phần giá trị không đáng kể trong chuỗi do quy mô nhỏ và công nghệ lạc hậu, trong khi đó, các công ty lớn thiếu kết nối với các tác nhân khác trong chuỗi giá trị. Thực trạng này khiến hộ sản xuất và doanh nghiệp chế biến khó áp dụng các tiêu chuẩn sản xuất bền vững.

Thực tế, đặc trưng của mặt hàng nghêu là chuỗi thị trường dài, phức tạp và phải tuân thủ các tiêu chuẩn xuất khẩu về vệ sinh môi trường nghiêm ngặt. Tuy nhiên, mối liên kết giữa các tác nhân trong chuỗi còn lỏng lẻo và thiếu hiệu quả, không đảm bảo tí́nh công bằng và minh bạch. Người sản xuất quy mô nhỏ còn yếu thế trong việc đàm phán với các bên thu mua và các doanh nghiệp chế biến. Phụ nữ í́t có cơ hội tham gia vào quá trình ra quyết định, trong khi họ chiếm đa số nhân lực trong sản xuất, chế biến nghêu. Cấu trúc quản trị của chuỗi giá trị chưa hoàn thiện, đầy đủ để hỗ trợ hiệu quả cho sản xuất bền vững và sự phát triển toàn diện của chuỗi giá trị. Chí́nh vì điều này đã ảnh hưởng tiêu cực tới chất lượng, khả năng truy xuất nguồn gốc của sản phẩm và làm giảm sức cạnh tranh của mặt hàng nghêu của Việt Nam trên thế giới.

Theo bà Trần Thị Thu Nga, Giám đốc Trung tâm Chuyển giao nuôi không ổn định. Công nghệ, Dịch vụ và Phát triển cộng đồng Nông Ngư nghiệp Việt Nam (FACOD) thuộc Hội Nghề Cá Việt Nam, hiện nghề nuôi nghêu Việt Nam vẫn đang trong tình trạng thiếu tính bền vững. Bởi nghề này vẫn phụ thuộc vào nguồn giống tự nhiên (trại sản xuất giống chỉ cung cấp khoảng 3% tổng lượng giống), tình trạng trộm cắp hủy diệt nguồn nghêu giống tự nhiên vẫn xảy ra phổ biến, phương thức khai thác không chú ý đến bảo vệ nghêu giống và bảo tồn nghêu bố mẹ, thiếu hệ thống thể chế và bộ máy quản lý hiệu lực, hiệu quả cho việc khai thác và bảo vệ nguồn lợi nghêu.

Đầu tư nghiên cứu khoa học công nghệ phục vụ ngành nghêu còn ít (dịch bệnh, quan trắc môi trường, sản xuất thức ăn tự nhiên, công nghệ làm sạch để ăn tươi sống), môi trường chưa được quản lý tốt, thiếu thể chế pháp lý cụ thể, thiếu thông tin dự báo cảnh báo môi trường cũng là những thách thức lớn với nghề nghêu... đấn đến dịch bệnh trên nghêu ngày càng nhiều từ năm 2006 đến nay, sản lượng nghêu nuôi không ổn định.

Bên cạnh đó, các thành viên trong chuỗi sản xuất, cung ứng nguyên liệu, mua bán trung gian, nhà máy chế biến, công ty xuất khẩu vẫn chưa có sự liên kết với nhau, trong đó các trung gian mua bán có sự chi phối lớn về giá và chưa có sự phân phối lợi ích và chi phí giữa các tác nhân tham gia chuỗi.

Xây dựng thương hiệu nghêu đạt chứng nhận MSC

Ông Đinh Xuân Lập, Phó Giám đốc Trung tâm Hợp tác Quốc tế Nuôi trồng và Khai thác Thuỷ sản Bền vững (ICAFIS) cho biết, chứng nhận MSC là nhãn hiệu sinh thái được chú trọng trên thế giới, các thị trường tiêu thụ sản phẩm trên thế giới đặc biệt quan tâm đến nhãn hiệu này. Trong thời gian tới, chứng nhận MSC sẽ được xem như một giấy thông hành và là điều kiện cần để các doanh nghiệp xuất khẩu nghêu Việt Nam sang các thị trường tiêu thụ trên thế giới. Chính vì vậy, ngay từ lúc này việc đạt được các chứng nhận MSC sẽ giúp các doanh nghiệp của Việt Nam xây dựng một thương hiệu nghêu đạt chứng nhận để dễ dàng tiếp cận được với các thị trường tiềm năng và có giá trị cao như Châu Âu, Nhật Bản, giup ngươi dân, doanh nghiêp co đâu ra ôn đinh. Thưc tê cho thây, so sánh với các sản phẩm chưa đạt được chứng nhận MSC, giá trị các sản phẩm đạt chứng nhận MSC tăng hơn 30 - 50%. Ngoài ra, trong xu thê tiêu dung hiên nay, chứng nhận MSC sẽ là điều kiện để tiếp cận với hơn 100 thị trường tiềm năng trên thế giới. Bên cạnh đó, hiện dư địa cho phát triển thị trường đối với sản phẩm nghêu lớn, vì vậy, để nắm lấy cơ hội mở rộng thị trường ngay từ bây giờ cần xây dựng nhãn hiệu sinh thái cho sản phẩm nghêu Việt Nam từ chuỗi trang trại đến bàn ăn đạt chứng nhận MSC.

Bà Trần Thị Thu Nga cho rằng, chứng nhận MSC không phải là chiếc đũa thần giúp nghêu có giá bán cao, vấn đề quan trọng là nghêu mang lại nguồn lợi bền vững cho cộng đồng người dân sống trên nguồn lợi thiên nhiên ban tặng. Bên cạnh đó, vấn đề an sinh xã hội, môi trường sinh thái được bảo vệ một cách bền vững. Đây là một trong những vấn đề được các nước tiêu thụ đặc biệt quan tâm. Chứng nhận MSC sẽ giúp nghêu Việt Nam có chỗ đứng bền vững trên thị trường, tăng sức cạnh tranh, từ đó nâng cao giá trị.

Đồng thời, các tổ chức chí́nh phủ và phi chí́nh phủ cần hỗ trợ về chủ trương, chí́nh sách đầu tư phát triển mạnh mẽ hơn vì mục tiêu phát triển bền vững; Các bộ, ngành liên quan sớm tổ chức đánh giá hiệu quả kinh tế, khoa học và xã hội do mô hình áp dụng tiêu chuẩn MSC mang lại làm cơ sở để hoàn thiện hệ thống thể chế, chí́nh sách và khuyến cáo cho các địa phương; Các địa phương có tiềm năng trong khu vực ĐBSCL cần sớm xây dựng kế hoạch áp dụng các nguyên tắc phát triển bền vững, nhằm tổ chức quản lý, khai thác tốt hơn nguồn lợi nghêu tự nhiên, tạo vùng nguyên liệu an toàn thực phẩm cho chế biến xuất khẩu, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng nghèo vùng ven biển.

Ông Nguyễn Văn Dũng, Chi cục trưởng Chi cục Nuôi trồng Thủy sản tỉnh Bến Tre cho biết, để được chứng nhận MSC, vùng nuôi nghêu cần đạt 23 tiêu chí́ lớn thuộc 3 nguyên tắc cơ bản đó là: Không gây ra tình trạng khai thác quá mức hoặc cạn kiệt quần thể đối tượng khai thác, và nếu quần thể bị cạn kiệt, nghề cá phải hướng đến sự khôi phục quần thể đó; Phải đảm bảo tí́nh duy trì cấu trúc, sức sản xuất, chức năng và sự đa dạng của hệ sinh thái mà nghề khai thác phụ thuộc vào; Nghề cá phải được đặt trong một hệ thống quản lý hiệu quả, tôn trọng luật pháp và tiêu chuẩn địa phương, quốc gia và quốc tế, có một khuôn khổ về thể chế và hoạt động chặt chẽ đòi hỏi phải sử dụng nguồn lợi một cách có trách nhiệm và bền vững.

Kể từ khi đạt được chứng nhận MSC vào ngày 03/11/2009, nghề nuôi nghêu Bến Tre đã đạt được những lợi í́ch to lớn về môi trường, sinh thái, quản lý và cả về lợi í́ch kinh tế. Nhờ MSC, sản lượng nghêu thịt được duy trì, nghêu giống xuất hiện nhiều hơn (năm 2011 nghêu chết khá nhiều nhưng sản lượng giống giảm không đáng kể). Trong khi đó, các tác động môi trường đã được xác định và giảm thiểu, các tiêu chuẩn về môi trường được thực hiện tốt (thống nhất với hướng dẫn nghề cá có trách nhiệm của FAO), thực hiện tiếp cận nghề cá theo hướng dựa vào hệ sinh thái.

Mặt khác, đáp ứng các tiêu chí́ của MSC cũng đã giúp nâng cao nhận thức và sự tham gia của các bên liên quan (Nhà nước, các hộ xã viên HTX, các tổ chức bên ngoài), từ đó hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý ngày càng nâng cao. Đặc biệt, lợi í́ch thiết thực nhất mà người nuôi nghêu cả nước đang được thụ hưởng là giá nghêu thịt tăng từ 15.000 - 18.000 đồng/kg (năm 2009) lên 30.000 - 35.000 đồng/kg hiện nay, trong đó giá nghêu MSC cao hơn nghêu bình thường 5 - 10%.

Trong thời gian tới, để nghề nuôi nghêu phát triển bền vững cần có sự tham gia chặt chẽ của các khâu trong chuỗi liên kết. Từ đó, đưa thương hiệu nghêu của Việt Nam có mặt trên các thị trường trên thế giới. Trong đó, chứng nhận MSC đóng vai trò quan trọng, người dân và các doanh nghiệp cần hiểu rõ sự cần thiết của chứng nhận này.

PV/ Tạp chí TCDN Tháng 11.2018
Bạn đang đọc bài viết Phát triển bền vững chuỗi giá trị nghêu tại chuyên mục Thị trường của Tạp chí Tài chính doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác:

email: [email protected], hotline: 086 508 6899

x