Thách thức đối với sự phát triển của tài chính vi mô trong bối cảnh thực hiện chiến lược tài chính toàn diện

25/06/2025, 16:15

TCDN - Với hơn 10 năm hoạt động, tài chính vi mô vẫn còn những rào cản vướng mắc khiến cho việc thúc đẩy phát triển hoạt động của các tổ chức này còn nhiều hạn chế.  Bài viết chỉ ra những thách thức cần được tháo gỡ nhằm thúc đẩy sự phát triển lớn mạnh khu vực này.

Tóm tắt:

Chiến lược tài chính toàn diện Quốc gia do Thủ tướng Chính Phủ ban hành đã khẳng định phát triển tài chính vi mô là trụ cột quan trọng của Phát triển tài chính toàn diện. Tài chính vi mô cần được tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ hơn nữa để thực hiện đúng sứ mệnh cao cả của mình là mang các dịch vụ tài chính và giáo dục việc thực hiện các dịch vụ tài chính tới người dân ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, tới các khách hàng yếu thế. Tuy nhiên, với hơn 10 năm hoạt động, tài chính vi mô vẫn còn những rào cản vướng mắc khiến cho việc thúc đẩy phát triển hoạt động của các tổ chức này còn nhiều hạn chế.  Bài viết chỉ ra những thách thức cần được tháo gỡ nhằm thúc đẩy sự phát triển lớn mạnh khu vực tài chính vi mô nhằm thực hiện tốt Chiến lược Tài chính toàn diện Quốc gia đã đề ra.

Nội dung

Đến ngày 31/12/2022, theo báo cáo của NHNN (2023),  trên phạm vi toàn quốc hiện có 04 tổ chức TCVM chính thức với tổng số chi nhánh là 65 chi nhánh và 70 phòng giao dịch (PGD), hoạt động tại 25 tỉnh, thành phố trên toàn quốc. Với mạng lưới hoạt động như trên, 04 Tổ chức TCVM đã có số lượng khách hàng thành viên lên tới 641.626 khách hàng và số lượng khách hàng được vay vốn lên tới 477.247 khách hàng. Từ góc độ hiệu quả xã hội, gần nửa triệu khách hàng đã được tiếp cận đến các khoản vay từ các tổ chức TCVM chính thức. Quy mô khoản cho vay trung bình của các tổ chức TCVM là khoảng 18,3 triệu đồng/khách hàng – tương đương chỉ gần 1/5 thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam hiện nay. Với quy mô khoản vay như vậy cho thấy các tổ chức TCVM đã và đang tập trung cho vay đúng phân khúc khách hàng mục tiêu của mình là những người nghèo, người có thu nhập thấp, doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ.

Bên cạnh đó, đến 31/12/2022, NHNN đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký đối với 71 chương trình, dự án TCVM hoạt động trên địa bàn 34 tỉnh, thành phố, trong đó (i) 03 chương trình, dự án TCVM của tổ chức phi chính phủ nước ngoài; (ii) 02 chương trình, dự án TCVM của tổ chức phi chính phủ trong nước có địa bàn hoạt động từ 02 tỉnh, thành phố trở lên; (iii) 66 chương trình, dự án TCVM của tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức phi chính phủ trong nước có địa bàn hoạt động trong 01 tỉnh, thành phố.

Những vấn đề về chính sách và cơ chế khiến cho ngành TCVM phát triển một cách cầm chừng ở Việt Nam hiện nay bao gồm:

Thiếu nguồn vốn cho hoạt động tài chính vi mô

Với quy định hiện hành, số lượng nguồn vốn đầu tư vào hoạt động tài chính vi mô giảm rất nhiều bởi chưa có những quy định khuyến khích đầu tư vào hoạt động tài chính vi mô.

Theo Thông tư 03/2018/TT-NHNN (sau đây gọi là Thông tư 03) chủ sở hữu của các tổ chức TCVM chính thức (dưới hình thái là Công ty TNHH một thành viên) bắt buộc phải là tổ chức chính trị (TCCT), tổ chức chính trị-xã hội (CTXH) được thành lập và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam hoặc TCCT, CTXH, hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện có chương trình, dự án tài chính vi mô được chuyển đổi theo quy định tại Quyết định 20/2017/QĐ-TTg (sau đây gọi là Quyết định 20). Tuy nhiên, theo Khoản 8 Điều 8 Luật Ngân sách Nhà nước, các TCCT, CTXH họat động theo nguyên tắc tự đảm bảo ngân sách và các năm gần đây, dự toán ngân sách của các tổ chức chính trị xã hội không có ngân sách cho hoạt động góp vốn tài chính vi mô và do vậy, đã 10 năm qua mà thị trường TCVM vẫn chỉ có 4 tổ chức TCVM chính thức, còn lại hoạt động dưới hình thức bán chính thức và hoặc các chương trình dự án TCVM.

Thông tư 03 cũng cho phép các Ngân hàng nước ngoài góp vốn vào tổ chức TCVM, tuy nhiên trên thực tế, các Ngân hàng nước ngoài không quan tâm đến thị trường TCVM nhỏ như ở Việt Nam. Trong khi đó, các tổ chức chuyên về tài chính vi mô trên Thế giới thường được thành lập từ các tổ chức phi chính phủ quốc tế (INGO), nguồn vốn từ khu vực tư nhân (cá nhân và tổ chức phi chính phủ nước ngoài) thì lại bị giới hạn ở Việt Nam.

Theo Quyết định 20, vốn huy động trong nước từ nguồn tiền gửi của khách hàng cũng bị giới hạn ở mức không vượt quá 30% tổng vốn được cấp tại các tổ chức TCVM bán chính thức (chương trình, dự án TCVM).

Cái vòng luẩn quẩn này nó như gọng kìm xiết lại khiến cho tổ chức, chương trình dự án TCVM rất khó để có được nguồn vốn cho mở rộng hoạt động.

Hạn chế việc chuyển đổi mô hình, thành lập tổ chức TCVM chính thức

Theo Thông tư 03, quy định trong việc thành lập và chuyển đổi tổ chức TCVM bắt buộc phải có sự tham gia của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội (CTXH), đối với tổ chức TCVM hai thành viên trở lên thì tổ chức chính trị, tổ chức CTXH phải là thành viên góp vốn với tỉ lệ góp vốn cao nhất. Trong khi đó, các tổ chức chính trị, tổ chức CTXH lại không có ngân sách cho hoạt động tài chính vi mô. Đối với các chương trình dự án TCVM được nhận tiền tài trợ từ các tổ chức nước ngoài, nguồn vốn được bàn giao cho tổ chức CTXH (Hội phụ nữ) quản lý. Khi chuyển đổi các chương trình dự án TCVM thì nguồn vốn đang được tổ chức CTXH quản lí sẽ thuộc Ngân sách Nhà nước và dẫn đến bị điều chỉnh bởi Luật Ngân sách Nhà nước 2015. Trong trường hợp các dự án TCVM có sử dụng Ngân sách Nhà nước để chuyển đổi thành tổ chức TCVM với tổng số vốn trên 50% vốn điều lệ thì sẽ là Doanh nghiệp Nhà nước và thuộc điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14. Từ đó có thể thấy sự chồng chéo trong các văn bản điều chỉnh quy định hiện nay gây trở ngại cho nguồn vốn để phát triển của các chương trình dự án TCVM.

Số lượng khách hàng tài chính vi mô bị giới hạn

Thông tư 03/2018/NHNN quy định về dư nợ cho vay với khách hàng tài chính vi mô “Tổ chức tài chính vi mô phải duy trì tỷ lệ tổng dư nợ các khoản cho vay đối với khách hàng tài chính vi mô trong tổng dư nợ cho vay tối thiểu 90%.” (khoản 4, điều 32, Thông tư 03). Trong khi đó theo Ngân hàng thế giới (WB) tỉ lệ nghèo ở Việt Nam giảm từ 16,8% xuống còn 5% trong giai đoạn từ 2010-2020. Chính vì vậy, quy định trên là không còn phù hợp với tình hình thực tế. Các khách hàng khác vừa thoát nghèo tiếp tục có nhu cầu vay vốn để phát triển kinh tế để tránh trường hợp tái nghèo thì bị giới hạn số lượng vốn cho vay, chỉ chiếm 10% tổng dư nợ. Điều này khiến cho số lượng khách hàng vay vốn bị hạn chế, không thể mở rộng được dư nợ cho vay từ đó ảnh hưởng đến chỉ số bền vững hoạt động của tổ chức TCVM.

Bên cạnh đó, theo khoản 6 Điều 3 Thông tư 03 “Khách hàng tài chính vi mô là cá nhân thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, cá nhân đại diện cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy định của pháp luật”. Trong khi đó theo khoản 2 điều 3 Quyết định 20 “Khách hàng tài chính vi mô là cá nhân thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, hộ có mức sống trung bình, cá nhân có thu nhập thấp, doanh nghiệp siêu nhỏ”. Như vậy, quy định về khái niệm khách hàng của tài chính vi mô đã chưa có sự nhất quán khiến cho các chương trình dự án TCVM rất khó khăn trong việc triển khai hoạt động và bản thân cơ quan quản lý cũng khó khăn trong việc giám sát hoạt động của các tổ chức này.

Sản phẩm tài chính vi mô chưa đáp ứng nhu cầu khách hàng

Luật Tổ chức tín dụng 2010 (và gần đây nhất là bản sửa đổi năm 2024) và Thông tư 03 quy định tổ chức tài chính vi mô được mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng thương mại nhưng không được mở tài khoản thanh toán cho khách hàng. Trong khi dịch vụ thanh toán và chuyển tiền là các dịch vụ cơ bản của một tổ chức tín dụng, các tổ chức TCVM (cả chính thức và phi chính thức) đều không được mở tài khoản thanh toán cho khách hàng. Điều này là hạn chế rất lớn khiến cho các giao dịch chuyển khoản của khách hàng TCVM qua tổ chức hay CTDA TCVM đều phải thực hiện qua Ngân hàng trung gian và đã đội chi phí giao dịch đối với các khách hàng nghèo lại tiếp tục tăng lên.

Có thể thấy, định hướng phát triển ngành TCVM là khá toàn diện và rõ ràng ở Việt Nam. Những bước đi tiếp theo sẽ cần là điều chỉnh hành lang pháp lý cho phù hợp để triển khai các biện pháp phát triển mạng lưới các tổ chức TCVM chính thức và đủ năng lực, hỗ trợ cho các chương trình dự án TCVM chủ động hoạt động của mình một cách tự vững, đáp ứng được các yêu cầu để phát triển và chính thức trở thành các tổ chức TCVM bền vững từ đó giúp mở rộng đối tượng khách hàng được phục vụ ở nhiều địa bàn hơn, nhiều khách hàng có thể được tiếp cận với các dịch vụ tài chính hơn, đạm nhiệm đúng trọng trách là trụ cột để phát triển Tài chính chính toàn diện của Quốc Gia.

Các giải pháp chính sách và hoạt động cần thực hiện bao gồm:

Thứ nhất, tạo lập hành lang pháp lý thông thoáng giúp hỗ trợ sự phát triển khu vực tài chính vi mô ở Việt Nam

Giải pháp đầu tiên và quan trọng nhất để phát triển TCVM tại Việt Nam đó là cần vận động thay đổi, xây dựng chính sách để tạo thêm cơ hội phát triển cho TCVM. Môi trường chính sách chính là điều tối quan trọng đầu tiên để có thể duy trì, phát triển không chỉ TCVM mà bất kì ngành nào tại các quốc gia trên thế giới. Với ngành TCVM tại Việt Nam, các chính sách cần được thay đổi nhiều hơn theo hướng khuyến khích phát triển, cởi mở hơn, sử dụng TCVM như công cụ xóa đói giảm nghèo hiệu quả, hỗ trợ người dân khó khăn có cơ hội thay đổi cuộc sống.

Về hình thức sở hữu, không quy định thành viên sáng lập và góp vốn bắt buộc có sự tham gia của các tổ chức chính trị xã hội, cho phép các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước được tham gia góp vốn, thành lập tổ chức TCVM, như Thông tư 02/2008/TT-NHNN. Các tổ chức chính trị xã hội có thể là các tổ chức hợp tác (thông qua thỏa thuận hợp tác) cùng tổ chức TCVM trong việc thẩm định các khách hàng, tuyên truyền và thực hiện các hoạt động xã hội liên quan. Điều này vừa giảm áp lực lên ngân sách của các tổ chức chính trị xã hội, vừa giảm tải cho các tổ chức này khi mà nguồn nhân lực của tổ chức này không chuyên về mảng tài chính.

Về tận dụng nguồn vốn nước ngoài, đối với các tổ chức được phép góp vốn để thành lập TCVM, nhằm tận dụng nguồn đầu tư nước ngoài, cho phép các tổ chức nước ngoài được phép đầu tư (thay vì chỉ ngân hàng nước ngoài) với số vốn có nguồn gốc rõ ràng, đúng với quy định của pháp luật Việt Nam.

Về tận dụng nguồn vốn trong nước cho hoạt động, Ngân hàng Nhà nước xem xét cho phép các tổ chức TCVM bán chính thức nhận tiền gửi từ khách hàng với tỉ lệ cao hơn, ít nhất bằng 50% tổng vốn được cấp, xem xét cho phép các tổ chức TCVM bán chính thức có quyền tiếp cận các khoản vay thương mại, các dịch vụ ngoại hối như tự vay tự trả. Cho phép nhận ủy thác từ cá nhân, các tổ chức khác bên cạnh các tổ chức đã được quy định trong pháp lệnh ngoại hối (NHTM, công ty tài chính, chi nhánh ngân hàng nước ngoài). Cần có cơ chế quy định chính sách rõ ràng dành cho cơ chế bán buôn tín dụng tới TCVM tại Việt Nam để đáp ứng được nhu cầu xã hội cũng như khả năng phát triển bền vững của bản thân các chương trình dự án TCVM.

Về khách hàng tài chính vi mô, Ngân hàng Nhà nước cần điều chỉnh lại quy định về khách hàng tài chính vi mô được quy định tại Thông tư 03 cho đồng nhất với quy định về khách hàng TCVM tại Quyết định 20, theo đó khách hàng tài chính vi mô là cá nhân thuộc hộ nghèo, cận nghèo, thu nhập thấp và doanh nghiệp siêu nhỏ.

Về sản phẩm dịch vụ được cung cấp, Ngân hàng Nhà nước có thể cho phép một số tổ chức TCVM được phép mở tài khoản thanh toán cho khách hàng, đặc biệt là các tổ chức TCVM có áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý và hoạt động TCVM.

Thứ hai, để có sự phát triển bền vững, các tổ chức TCVM cần nâng cao năng lực cho chính tổ chức mình thông qua một số điểm cơ bản sau:

+ Các tổ chức TCVM phải xây dựng một chiến lược và kế hoạch hoạt động nhất quán trong đó xác định rõ ràng các khách hàng mục tiêu chính; các sản phẩm tín dụng đầu mối để hỗ trợ hoạt động kinh doanh của khách hàng cũng như các sản phẩm bổ sung bên cạnh ngành nghề kinh doanh chính.

+ Các tổ chức TCVM cần nỗ lực cải thiện cơ chế kiểm soát và kiểm toán nội bộ, hoạt động hiệu quả nhằm quản lý rủi ro tín dụng, đảm bảo hoạt động an toàn và lành mạnh của các tổ chức; Áp dụng các thông lệ tốt về quản lý, vận hành khi thiết kế, cải tiến các quy trình nghiệp vụ đảm bảo tính đồng bộ với hệ thống quản lý chung và nâng cao hiệu quả của thể chế quản lý.

+ Các tổ chức TCVM cần nâng cao hệ thống quản lý tín dụng theo tiêu chuẩn của ngân hàng bằng cách cải thiện quản lý rủi ro và quản lý tài sản - nợ, đảm bảo các tỷ lệ an toàn trong hoạt động tín dụng, v.v…

+ Các tổ chức TCVM cũng cần có sự đầu tư phát triển hệ thống công nghệ thông tin trong cả hoạt động và quản trị nội bộ.

+ Cuối cùng nhưng cũng là quan trọng nhất đó là các tổ chức, CTDA TCVM cần chủ động nâng cao năng lực cho nhân viên của tổ chức, coi con người là yếu tố quyết định đến chất lượng dịch vụ tài chính.

Thứ ba, các chương trình, dự án tài chính vi mô cần có kế hoạch rõ ràng trong việc phát triển và chuyển đổi

Để phát triển được thị trường TCVM, bên cạnh việc vận động xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ cho TCVM, một trong những nhiệm vụ quan trọng khác đó là xây dựng được kế hoạch phát triển rõ ràng, đúng hướng, đặc biệt là các CTDA TCVM cần phải phát triển theo hướng chuyển đổi mô hình thành tổ chức TCVM chính thức.

Việc chuyển đổi mô hình dựa rất nhiều vào kết quả hoạt động, năng lực của CTDA vì cần phải đạt đủ ngưỡng để NHNN và các cơ quan liên quan thấy được rằng tổ chức có đủ khả năng để hoạt động một cách bền vững, giảm thiểu rủi ro và không gây ảnh hưởng đến hệ thống tài chính.

Để có thể xây dựng được kế hoạch phát triển đúng hướng cho CTDA TCVM, những người lãnh đạo tổ chức cần có trước hết là sự quyết tâm theo đuổi và xác định rõ ràng hướng phát triển của tổ chức là chuyển đổi thành mô hình tổ chức TCVM chính thức để bắt đầu từ những công việc nhỏ nhất.

Một số điều các CTDA TCVM cần thực hiện để bắt đầu quá trình phát triển và chuyển đổi mô hình:

● Giữ vững mục tiêu hoạt động vì người nghèo, người thu nhập thấp: Tiếp tục thực hiện sứ mệnh giảm nghèo cho cá nhân, hộ gia đình có thu nhập thấp, thông qua các dịch vụ tài chính và phi tài chính đa dạng hơn nữa, phù hợp hơn nữa với từng đối tượng khách hàng cụ thể.

●  Đa dạng hóa sản phẩm: Xây dựng, nghiên cứu phát triển các sản phẩm đa dạng theo quy định hiện hành và phù hợp cho nhiều đối tượng để thu hút thêm nhiều khách hàng tiềm năng.

● Xây dựng lộ trình phát triển, tăng trưởng quy mô: Chấp nhận thay đổi, phát triển để đạt dược những mục tiêu lớn và lâu dài hơn, mở rộng quy mô dư nợ, mở rộng địa bàn hoạt động. Bước ra khỏi vùng an toàn nhưng cần phải có chiến lược hợp lý, vững chắc. Mở rộng phải đi đôi với phát triển năng lực để có thể kiểm soát được bất kỳ rủi ro nào.

● Đào tạo nhân lực: Cử các cán bộ, nhân viên đi học các khóa đào tạo trong những lĩnh vực cần thiết. Lãnh đạo CTDA các cấp cần tham gia các khóa đào tạo để có thể nâng cao kỹ năng, kiến thức về điều hành, phát triển và hoạt động trong TCVM rồi từ đó về áp dụng hoặc chuyền kiến thức lại cho nhân viên của mình

● Chuyển đổi số: Trong xã hội với xu hướng công nghệ ngày càng phát triển, các CTDA TCVM cần phải thực hiện chuyển đổi số, sử dụng công nghệ trong mỗi hoạt động hằng ngày của tổ chức.

● Tìm kiếm, kết nối trợ giúp: Kết nối mối quan hệ với các đối tác có kinh nghiệm về phát triển, chuyển đổi mô hình như tổ chức TCVM Thanh Hoá, CEP, M7, TYM. Tham khảo sự tư vấn từ các tổ chức chuyên gia ở Việt Nam như VMFWG hay các tổ chức chuyên gia nước ngoài có kinh nghiệm TCVM tại Việt Nam như KIVA, OIKO. Các tổ chức chuyên gia này sẽ có thể trực tiếp hỗ trợ vào hoạt động của tổ chức về lâu dài trong quá trình xây dựng hướng tới chuyển đổi mô hình.

Thứ tư tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận biết về tài chính vi mô

Phát triển TCVM, cần có các biện pháp nâng cao nhận thức về Tài chính vi mô trong công chúng. Hiện nay, không nhiều người có kiến thức về TCVM và chỉ số ít trong đó hiểu chính xác bản chất của TCVM. Nhiều người cho rằng TCVM chỉ gắn với các mục tiêu xã hội, hoạt động vì cộng đồng không vì lợi nhuận nhưng thực chất các tổ chức TCVM vẫn là các tổ chức tín dụng, là doanh nghiệp cần có lợi nhuận để duy trì được hoạt động, nhân sự. Với sự hiểu lầm đó, TCVM vẫn còn chịu nhiều ràng buộc về mặt tư tưởng trong mắt công chúng, bị giới hạn lại ở các mục tiêu xã hội. Cần phải có sự tuyên truyền tới công chúng thật rõ ràng về khái niệm TCVM nói chung và TCVM tại Việt Nam nói riêng thông qua các kênh thông tin chính thống để giúp người dân và Nhà Nước có cái nhìn đúng đắn hơn, nhìn thấy được giá trị và ủng hộ cho TCVM phát triển.

Tài liệu tham khảo:

Chính Phủ, 2017, Quyết định 20/2017/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ Quy định về hoạt động của Chương trình dự án TCVM của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức phi Chính phủ;

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2018, Thông tư 03/2018/TT-NHNN, Quy định về cấp giấy phép, tổ chức và hoạt động của tổ chức TCVM;

Ngân hàng Nhà nước, 2020, Báo cáo năm 2019 về việc thực hiện Quyết định số 2195/QĐ-TTg ngày 6/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án xây dựng và phát triển hệ thống tài chính vi mô tại Việt Nam;

Nguyễn Kim Anh, Nguyễn Thị Tuyết Mai, 2022, Môi trường chính sách phát triển hoạt động tài chính vi mô hướng tới Tài chính toàn diện tại Việt Nam.

TS. Nguyễn Hồng Yến

Khoa Ngân hàng – Học viện Ngân hàng

Tạp chí in số tháng 6/2025

Tin liên quan

x