Việt Nam 'đảo ngược' vị thế từ xuất khẩu sang nhập khẩu than
TCDN - Trong hơn 9 tháng đầu năm, Việt Nam nhập khẩu hơn 10 triệu tấn than đá do nguồn than trong nước không đáp ứng đủ, trong khi giá than nhập khẩu rẻ hơn giá than khai thác trong nước rất nhiều.

Ông Nguyễn Khắc Thọ, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Năng lượng (Bộ Công thương) nhấn mạnh khi lý giải về nguyên nhân nước ta nhập nhiều than đá trong thời gian qua tại tọa đàm "Nhập khẩu than và bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia", do Cổng thông tin điện tử Chính phủ tổ chức ngày 24/10.
Nhập khẩu than vượt kế hoạch 7 tấn
Theo số liệu được đưa ra tại tọa đàm, tính đến 15/9, tổng lượng nhập khẩu than đá của cả nước đạt 10,1 triệu tấn với kim ngạch 629,5 triệu USD. So với mức dự báo do Bộ Công thương đưa ra đầu năm nay là 3,1 triệu tấn thì số lượng nhập đã tăng gấp hơn ba lần.
Như vậy, từng là nước xuất khẩu than, trong thời gian qua, nước ta lại trở thành nước nhập khẩu than với số lượng lớn.
Về vấn đề này, ông Thọ cho biết, đối với xuất khẩu than, chúng ta đang điều hành theo quan điểm phát triển ngành than, tức là chỉ xuất khẩu những loại than trong nước chưa sử dụng hết hoặc chưa có nhu cầu sử dụng và được quản lý thông qua kế hoạch cụ thể.
Theo đó, hàng năm, Bộ Công thương sẽ tính toán cân đối cung cầu dựa trên nguyên tắc đáp ứng tối đa cho nhu cầu sử dụng trong nước. Còn lại mới xem xét và báo cáo Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch xuất khẩu.
Cũng theo ông Thọ, nguyên nhân của thực trạng nhập khẩu than tăng cao trong thời gian vừa qua là do lượng than khai thác trong nước không đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng. Bên cạnh đó, trong nửa đầu năm giá than nhập khẩu ở nhiều thị trường giảm và rẻ hơn giá than khai thác trong nước.
Ông Thọ cho biết thêm, giá than trong nước cao hơn nhập khẩu là do hiện đa số các mỏ than của nước ta đã khai thác rất sâu, một số mỏ được khai thác xuống dưới mức âm 300 mét so với mặt nước biển. Kỹ thuật và điều kiện khai thác của ngành than còn chưa cao cũng là nguyên nhân đẩy giá thành của sản phẩm này cao hơn...
Đặc biệt, lý giải sâu hơn về khoảng chênh lệch 7 triệu tấn than đá nhập khẩu từ đầu năm đến nay, ông Thọ nói, nhu cầu than 3 triệu tấn trong dự báo của Bộ Công Thương là chưa tính đến các nhà máy nhiệt điện BOT và các nhà máy đã nhập khẩu than trước đây như Formosa Đồng Nai... Mặt khác, con số đó chúng tôi cũng chưa tính đến các hộ khác như sản xuất xi măng, hoá chất...
Về phía Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam (TKV), ông Nguyễn Văn Biên, Phó Tổng giám đốc cho biết, trong tổng lượng nhập khẩu than hơn 9 tháng qua, TKV mới chỉ nhập khoảng 1 triệu tấn, còn lại là các đơn vị khác.
"Nước ta nhập nhiều than là do giá than thế giới xuống mức thấp trong khi đó các doanh nghiệp đã có hợp đồng mua than từ trước, nhất là than cho xi măng và nhiệt điện BOT", ông Biên nhấn mạnh.
Sắp tới, giá than nhập sẽ tăng và tiệm cận giá trong nước
Một trong những vấn đề được đề cập đến trong tọa đàm là lượng than nhập khẩu từ Trung Quốc khá lớn với mức giá cao. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, nước ta nhập than chủ yếu từ những thị trường như Úc với 3 triệu tấn, Nga với 2,8 triệu tấn, Indonesia với 1,8 triệu tấn và Trung Quốc với 1,4 triệu tấn... Như vậy, Trung Quốc đứng thứ 4 trong số các thị trường xuất than vào Việt Nam.
Được biết, trong 9 tháng, giá mỗi tấn than nhập từ Trung Quốc về Việt Nam là 71 USD/tấn, cao hơn từ 15 - 20 USD/tấn so với mức giá trung bình thế giới (50 - 55 USD/tấn). Nhất là trong tháng 9 vừa qua, giá than nhập từ thị trường này lên đến 115 USD/tấn, cao nhất trong nhóm than nhập về Việt Nam.
Trả lời về thắc mắc này, ông Thọ cho biết đó là mức giá trung bình của tất cả các loại than chia đều (than mỡ, than cốc, than Antraxit, than cám). Theo hóa đơn chứng từ của Hải quan, số than nhập của Trung Quốc 9 tháng qua là 1,3 triệu tấn. Cụ thể từng mức giá như sau: Than cốc, than mỡ cho luyện thép giá 169 USD/tấn; than Antraxit giá 60 USD/tấn. Từ đó có thể thấy, giá than nhập từ Trung Quốc có mức giá phù hợp với giá than thế giới.
Ngoài ra, đánh giá về những tác động khi lượng than nhập khẩu tăng cao, đại diện Bộ Công thương cho biết, năm 2016, sản lượng của TKV giảm khoảng 3 triệu tấn và điều này cũng ảnh hưởng đến năng lực đầu tư cũng như năng lực sản xuất của tập đoàn này. Đồng thời ảnh hưởng tiêu cực đến việc giá tăng sản lượng trong thời gian tới. Bên cạnh đó còn công ăn việc làm của 12 vạn công nhân mỏ và người lao động...
Ông Biên cho biết thêm, hiện toàn ngành tồn kho 12 triệu tấn than, trong đó các doanh nghiệp thuộc TKV là 11 triệu tấn. Lượng tồn kho lớn đã gây ảnh hưởng đến sản xuất của ngành than. Do đó, để khắc phục tình trạng tồn kho tăng, xuất khẩu chậm TKV kiến nghị Thủ tướng cho xuất khẩu thêm từ 2 - 4 triệu tấn/năm từ 2017 - 2020 các loại than cao cấp, có giá trị mà trong nước không sử dụng để giảm tồn kho.
"Tình trạng nhập khẩu nhiều than đá sẽ không tồn tại lâu bởi giá nhập than chỉ giảm ở 6 tháng đầu năm, hiện nay đã tăng lên và dần tiệm cận với giá than trong nước. Do đó, từ nay đến cuối năm 2016 khối lượng nhập khẩu than sẽ không nhiều, nếu có thì các doanh nghiệp cũng chỉ thực hiện các hợp đồng đã ký trước đây", ông Thọ khẳng định./.
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, 9 tháng đầu năm nay, xuất khẩu than chỉ đạt hơn 730.000 tấn, thu về 73,8 triệu USD, giảm 48% về lượng và hơn 51% về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Mặt hàng than đá xuất khẩu được liệt vào nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu giảm nhanh, nhiều nhất trong 9 tháng qua. |
Theo Thời báo Tài chính Việt Nam
email: [email protected], hotline: 086 508 6899