Vụ “biến” đất dân thành đất công ở Ninh Hoà, Khánh Hoà: Ông nói gà, ông nói vịt?

13/05/2021, 10:13

TCDN - Mảnh đất của bà Hiệp nhưng chính quyền địa phương ra quyết định thu hồi đất bà Trị, sau đó lại trả tiền và đền bù tái định cư lại cho ông Chan… Đó là thực trạng đã xảy ra tại thị xã Ninh Hoà, Khánh Hoà khiến người dân mất đất bức xúc.

Ngày 22/11/2020 Tài chính Doanh nghiệp có đăng tải bài viết: “Ninh Hoà, Khánh Hoà: “Biến” đất dân thành đất công để cho thuê?”. Trong bài viết này, có phản ánh việc năm 2011, ông Tống Trân, Phó Chủ tịch UBND thị xã Ninh Hoà thu hồi đất của dân có dấu hiệu trái quy định pháp luật.

Người dân nhiều năm liền gõ cửa cơ quan chức năng để tìm công lý nhưng liên tục bị từ chối. Theo đó, đi sâu vào tìm hiểu, PV Tài chính Doanh nghiệp phát hiện nhiều việc động trời trong việc “bùa phép” để biến đất dân thành đất công của lãnh đạo  thị xã Ninh Hoà.

Quyết định không bồi thường cho bà Nguyễn Thị Trị vì không có đất của ông Trần Văn Minh, thời điểm đó là Phó Chủ tịch UBND huyện Ninh Hoà (nay là Thị xã Ninh Hoà).

Quyết định không bồi thường cho bà Nguyễn Thị Trị vì không có đất của ông Trần Văn Minh, thời điểm đó là Phó Chủ tịch UBND huyện Ninh Hoà (nay là Thị xã Ninh Hoà).

"UBND thị xã Ninh Hoà thu hồi đất của dân sai quy định pháp luật"

Luật sư Nguyễn Đức Thắng Ý, Đoàn luật sư Tp.HCM khẳng định việc thu hồi đất của bà Nguyễn Thị Hiệp sai quy định pháp luật. Không có căn cứ thu hồi 333,6 m2 đất trên để giao phường Ninh Hiệp quản lý và sử dụng. UBND thị xã Ninh Hoà nên trả lại đất đã thu hồi sai cho dân và kiểm điểm sai phạm của cán bộ. Người dân có quyền khiếu nại, khiếu kiện ra toà án để lấy lại đất.

Ngoài ra, UBND thị xã Ninh Hoà còn sai trầm trọng hơn khi vị trí đất này để cho một đối tượng khác thuê để bán hoa, cây cảnh. Còn nếu là đất công, ai muốn thuê phải thông qua đấu giá, tiền phải nộp vào ngân sách nhà nước.

Cụ thể, năm 2002, bà Nguyễn Thị Hiệp nhờ chị gái tên Nguyễn Thị Trị đứng tên để mua 3 lô đất tại bao gồm: lô 1 thửa 438 tờ bản đồ số 41 có diện tích 257 m2; lô 2 thửa 195 tờ bản đồ số 3 có diện tích 360 m2; lô 3 thửa 196 tờ bản đồ số 32 có diện tích 1058 m2. Thời điểm này, hai bên mua bán bằng giấy tay. Cả ba lô đất này do ông Trần Chan và Trương Thị Nhì bán. Trong đó, lô đất 360 m2 và 1058 m2 nằm chung một sổ đỏ, đứng tên Trương Thị Nhì và Trần Chan.

Năm 2006, bà Nguyễn Thị Trị chuyển lại hai lô đất có diện tích 360 m2 và 1058 m2 sang cho bà Nguyễn Thị Hiệp. Sau đó, bà Hiệp ra sổ lô 1058 m2 đứng tên bà Nguyễn Thị Hiệp. Còn lô 2 thửa 195 tờ bản đồ số 3 có diện tích 360 m2 có một phần nằm trong quy hoạch để xây dựng dự án đầu tư xây dựng công trình đường Bắc Nam qua thị xã Ninh Hoà nên không chuyển sổ đỏ. Sau đó, bà Hiệp uỷ quyền cho bà Trị (uỷ quyền bằng giấy tay) giải quyết vấn đề liên quan đến khiếu kiện, khiếu nại tại lô đất này. Bởi bà Hiệp học vấn thấp (lớp 5) nên ít hiểu luật.

Năm 2008, lô 1 thửa 438 tờ bản đồ số 41 có diện tích 257 m2 được làm ra sổ đỏ và sau đó sang tên cho Nguyễn Thị Thạch Trúc. Năm 2009, UBND huyện Ninh Hoà ra quyết định 1151 thu hồi đất để xây dựng dự án đầu tư xây dựng công trình đường Bắc Nam qua huyện Ninh Hoà. Lô đất 360 m2 của bà Nguyễn Thị Hiệp bị thu hồi mất 26,4 m2. Phần đất còn lại là 333,6 m2 có hơn hai mươi mét mặt đường quốc lộ 1A.

Tuy nhiên, bà Trị (người được bà Hiệp uỷ quyền) lại không được nhận đền bù khi bị nhà nước thu hồi 26,4 m2 đất trên. Ông Trần Văn Minh (nguyên Phó Chủ tịch UBND huyện Ninh Hoà) lúc đó đã ra thông báo gửi bà Nguyễn Thị Trị với nội dung bà Trị không có quyền và lợi ích hợp pháp đối với phần đất tại tổ dân phố 2 bị ảnh hưởng bởi dự án đường Bắc Nam thị trấn Ninh Hoà. Toàn bộ số tiền đền bù đều do ông Trần Chan thụ hưởng.

Đến ngày 26/6/2011, tự nhiên UBND thị xã Ninh Hoà lại ra thông báo thu hồi phần đất 333,6 m2. Lý do để thu hồi là giao cho phường Ninh Hiệp quản lý. Trong quyết định thu hồi đất ngày 26/9/2011, ông Tống Trân lúc đó là Phó Chủ tịch huyện Ninh Hoà (hiện ông Trân là đương kim Bí thư Ninh Hoà) nêu là thu hồi theo đơn đề nghị của bà Nguyễn Thị Trị.

Sau khi “lấy” được đất dân, chính quyền địa Ninh Hoà giao cho địa phương quản lý và xây dựng nhà cộng đồng phục vụ cho tổ dân phố 2. Tuy nhiên, thời điểm này quỹ đất công tại địa phương còn rất nhiều. Vậy vì sao chính quyền địa phương lại thu hồi đất của dân? Câu hỏi này, đến nay lãnh đạo thị xã Ninh Hoà vẫn chưa trả lời được.

Ông Tống Trân (nay là Bí thư Thị xã Ninh Hoà) thời điểm đó thu hồi đất trái quy định pháp luật.

Ông Tống Trân (nay là Bí thư Thị xã Ninh Hoà) thời điểm đó thu hồi đất trái quy định pháp luật.

"Tự dưng" ông Trần Chan lại được UBND thị xã Ninh Hoà bồi thường cho mảnh đất khác, bằng diện tích ông Tống Trân ra quyết định thu hồi ở trên. Điều đặc biệt là mảnh đất bồi thường cho ông Trần Chan là quỹ đất công, nằm tại tổ dân phố 2, cách khu đất bị thu hồi trên không xa.

Trả lời phỏng vấn của PV, Chủ tịch UBND phường Ninh Hiệp khẳng định: "Thời điểm đó, quỹ đất công tại tổ dân phố 2 của phường Ninh Hiệp vẫn còn. Việc thu hồi này do lãnh đạo trên làm, phường chỉ là đơn vị tiếp nhận và quản lý đất được giao”.

Khu đất của dân sau khi thu hồi được lãnh đạo phường Ninh Hiệp cho tư nhân thuê bán hoa, toàn bộ số tiền thu được không nộp vào ngân sách nhà nước.

Khu đất của dân sau khi thu hồi được lãnh đạo phường Ninh Hiệp cho tư nhân thuê bán hoa, toàn bộ số tiền thu được không nộp vào ngân sách nhà nước.

Vậy, có hay không việc lãnh đạo thị xã Ninh Hoà lạm quyền, thu hồi đất của dân trái quy định? Bởi, nếu đã xác định bà Trị không có quyền và lợi ích hợp pháp (theo văn bản của ông Trần Văn Minh) đối với khu đất tại tổ dân phố 2 thì quyết định thu hồi đất dựa vào “đơn đề nghị của dân” (theo quyết định của ông Tống Trân) là không có cơ sở và trái luật. Và đã không có cơ sở và trái luật thì phải thu hồi quyết định đã ký, cũng như xử lý hậu quả.

Ngược lại, nếu khẳng định rằng quyết định thu hồi đất theo đơn đề nghị của dân là đúng thì cơ quan chức năng thị xã Ninh Hoà cần công khai cái đơn đề nghị đó để chứng minh sự trung thực, khách quan. Đồng thời, phải đền bù phần đất của bà Nguyễn Thị Trị đã bị thu hồi trước đó để làm đường Bắc Nam. Bên cạnh đó, phải thu hồi số tiền đã bồi thường, đất tái định cư đã cấp cho người khác.

Vụ việc tại tổ dân phố 2 đến hiện tại có thể khẳng định sự bất nhất trong các văn bản, quyết định hành chính của cơ quan chức năng thị xã Ninh Hoà (ông nói gà, ông nói vịt). Và chính sự bất nhất đó đã khiến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân chưa được đảm bảo, nếu không muốn nói là ảnh hưởng nghiêm trọng.

Bức xúc vì bị thu hồi đất, bà Trị không đồng ý, nên đã khiếu nại lên các cấp. Tuy nhiên, UBND thị xã Ninh Hoà không giải quyết. Ngoài ra, tiền đền bù, thu hồi khu đất này hiện do ai nắm giữ, về túi ai… ngay cả chủ đất là bà Nguyễn Thị Hiệp cũng không biết!?.

Trách nhiệm của lãnh đạo UBND thị xã Ninh Hoà ở đâu khi bà Nguyễn Thị Hiệp liên tục khiếu nại liên quan đến việc thu hồi đất trái luật?

Trách nhiệm của lãnh đạo UBND thị xã Ninh Hoà ở đâu khi bà Nguyễn Thị Hiệp liên tục khiếu nại liên quan đến việc thu hồi đất trái luật?

Hai quyết định trái ngược nhau của hai lãnh đạo Ninh Hoà lúc đó đã đẩy dân vào đường cùng. Người dân liên tục khiếu nại, khiếu kiện các cơ quan chức năng. Tuy nhiên, 10 năm nay, mọi việc khiếu nại được chính quyền địa phương im lặng và tìm cách xoá dấu vết. Bởi, 5 tháng trôi qua, lãnh đạo thị xã Ninh Hoà vẫn chưa tìm đủ hồ sơ trong việc thu hồi đất sai luật trên.

Liên quan đến việc này, từ khi tìm hiểu và vụ việc được thông tin cho tới hiện tại, cơ quan chức năng thị xã Ninh Hoà cũng mới có thể trả lời rằng: “Chưa tìm thấy đơn của bà Trị, đang chỉ đạo các ngành chức năng tiếp tục tìm. Chờ trả lời sau”. 

Không chỉ bức xúc vì bị thu hồi vô cớ, người dân còn chứng kiến nhiều năm qua, khu đất trên được UBND phường Ninh Hiệp cho tư nhân thuê bán hoa. Tiền thuê đất cũng không hề nộp vào ngân sách nhà nước. Trách nhiệm của UBND phường Ninh Hiệp ở đâu khi để thất thu tiền thuế, ngân sách nhà nước? Sau nhiều tháng trôi qua, đến nay UBND phường Ninh Hiệp cũng như thị xã Ninh Hoà cũng chưa trả lời cho PV số tiền thuê đất này vào túi ai? 

Điều 38, Luật Đất đai 2003 quy định. Các trường hợp thu hồi đất

Nhà nước thu hồi đất trong các trường hợp sau đây:

1. Nhà nước sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế;

2. Tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất, được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước hoặc cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm bị giải thể, phá sản, chuyển đi nơi khác, giảm hoặc không còn nhu cầu sử dụng đất;

3. Sử dụng đất không đúng mục đích, sử dụng đất không có hiệu quả;

4. Người sử dụng đất cố ý hủy hoại đất;

5. Đất được giao không đúng đối tượng hoặc không đúng thẩm quyền;

6. Đất bị lấn, chiếm trong các trường hợp sau đây:

a) Đất chưa sử dụng bị lấn, chiếm;

b) Đất không được chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này mà người sử dụng đất do thiếu trách nhiệm để bị lấn, chiếm;

7. Cá nhân sử dụng đất chết mà không có người thừa kế;

8. Người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất;

9. Người sử dụng đất cố ý không thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước;

10. Đất được Nhà nước giao, cho thuê có thời hạn mà không được gia hạn khi hết thời hạn;

11. Đất trồng cây hàng năm không được sử dụng trong thời hạn mười hai tháng liền; đất trồng cây lâu năm không được sử dụng trong thời hạn mười tám tháng liền; đất trồng rừng không được sử dụng trong thời hạn hai mươi bốn tháng liền;

12. Đất được Nhà nước giao, cho thuê để thực hiện dự án đầu tư mà không được sử dụng trong thời hạn mười hai tháng liền hoặc tiến độ sử dụng đất chậm hơn hai mươi bốn tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư, kể từ khi nhận bàn giao đất trên thực địa mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định giao đất, cho thuê đất đó cho phép.

Điều 39. Thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng

1. Nhà nước thực hiện việc thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng sau khi quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được công bố hoặc khi dự án đầu tư có nhu cầu sử dụng đất phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt.

2. Trước khi thu hồi đất, chậm nhất là chín mươi ngày đối với đất nông nghiệp và một trăm tám mươi ngày đối với đất phi nông nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải thông báo cho người bị thu hồi đất biết lý do thu hồi, thời gian và kế hoạch di chuyển, phương án tổng thể về bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư.

3. Sau khi có quyết định thu hồi đất và phương án bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt, được công bố công khai, có hiệu lực thi hành, người bị thu hồi đất phải chấp hành quyết định thu hồi đất.

Trường hợp người bị thu hồi đất không chấp hành quyết định thu hồi đất thì Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền quyết định thu hồi đất ra quyết định cưỡng chế. Người bị cưỡng chế thu hồi đất phải chấp hành quyết định cưỡng chế và có quyền khiếu nại.

Điều 40. Thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế

1. Nhà nước thực hiện việc thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế trong trường hợp đầu tư xây dựng khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế và các dự án đầu tư lớn theo quy định của Chính phủ.

Việc thu hồi đất được thực hiện theo quy định tại Điều 39 của Luật này.

2. Đối với dự án sản xuất, kinh doanh phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt thì nhà đầu tư được nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất của các tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân mà không phải thực hiện thủ tục thu hồi đất.

Thanh Ka
Bạn đang đọc bài viết Vụ “biến” đất dân thành đất công ở Ninh Hoà, Khánh Hoà: Ông nói gà, ông nói vịt? tại chuyên mục Bất động sản của Tạp chí Tài chính doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác:

email: [email protected], hotline: 086 508 6899

Tin liên quan