Bài 1: Nhiều bất cập trong thu chi ngân sách tại Lào Cai
TCDN - Kiểm toán Nhà nước phát hiện tỉnh Lào Cai còn để phát sinh 132.670 triệu đồng, nợ đọng mới trong năm 2020 chưa đảm bảo theo quy định của Luật Đầu tư công và Chỉ thị 07/CT-TTg ngày 30/4/2015; Chưa bố trí đủ kế hoạch vốn ngân sách nhà nước trong năm để thanh toán nợ đọng xây dựng cơ bản.
Theo kết quả kiểm toán năm 2020, Kiểm nhà Nước chỉ ra nhiều vi phạm trong thu chi ngân sách địa phương trên địa bàn tỉnh Lào Cai như:
UBND tỉnh giao dự toán thu nội địa đầu năm cao hơn 29% so với dự toán được Bộ Tài chính giao (cao hơn 28% so với dự toán được Cục Thuế lập) nhưng không có đủ hồ sơ, tài liệu thuyết minh); các huyện, thị xã và thành phố được kiểm toán cho thấy dự toán thu nội địa được xây dựng chưa mang tính phấn đấu (số thu năm sau không bằng năm trước); chưa đảm bảo mức tăng bình quân tối thiểu 10-12% theo quy định tại mục III Chỉ thị số 10/CT-UBND ngày 08/7/2019 của UBND tỉnh Lào Cai; kiểm toán tại huyện Bảo Yên cho thấy: Trong năm UBND tỉnh điều chỉnh dự toán thu, chi NSNN đối với huyện Bảo Yên tại Quyết định số 2266/QĐ-UBND ngày 20/7/2020.
Theo đó, dự toán thu NSNN trên địa bàn sau điều chỉnh là 94.400 triệu đồng, giảm so với số giao đầu năm 11.680 triệu đồng; tuy nhiên, số thu NSNN thực hiện 123.146 triệu đồng, vượt 30% so với dự toán của UBND tỉnh giao đầu năm, việc điều chỉnh giảm dự toán thu NSNN trên địa bàn đối với huyện Bảo Yên là chưa phù hợp theo quy định tại Điều 52 Luật NSNN.
Công tác phân bổ kế hoạch vốn đầu tư công năm 2020 địa phương chưa ưu tiên bố trí đủ vốn để thanh toán nợ đọng XDCB của các dự án quyết toán, các dự án dự kiến hoàn thành trong năm 2020 (gồm 713 dự án, công trình quyết toán số tiền 142.586trd và 289 dự án, công trình hoàn thành chờ quyết toán số tiền 318,420trđ) theo hướng dẫn số 8472/BKHĐT-TH ngày 13/11/2019 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư; phân bổ kế hoạch vốn năm 2020 cho một số dự án còn tồn tại, bất cập, như: phân bổ vốn không đảm bảo thời gian (nhóm C quá 3 năm) vả chưa bố trí đủ vốn theo kế hoạch trung hạn được duyệt.
Một số dự án nguồn vốn NST chưa bố trí đủ vốn đối ứng ODA theo kế hoạch trung hạn được duyệt, trong khi có dự án lại bố trí thừa vốn đối ứng; phân bổ vốn còn chưa phù hợp với khả năng giải ngân thực tế của một số dự án dẫn tới cuối năm phải điều chỉnh"; việc bố trí vốn cho từng dự án chưa sát với thực tế (huyện Bảo Yên; thị xã Sa Pa; huyện Bảo Thắng); chưa ưu tiên bố trí đủ vốn cho các dự án quyết toán, các dự án dự kiến hoàn thành trong năm 2020 (huyện Bảo Yên; thị xã Sa Pa, huyện Bảo Thắng).
Luỹ kế vốn ứng trước cho chi đầu tư XDCB đến 31/12/2020 còn 849.469trđ chưa được bố trí kế hoạch vốn để thu hồi, gồm: Ứng trước NSTW 767.983 trđ (đến thời điểm kiểm toán còn 564.766trđ); ứng trước nguồn ngân sách tỉnh 77.551trđ (đến thời điểm kiểm toán còn 77.551trđ).
Ngoài ra, năm 2020 UBND tỉnh tiếp tục thực hiện ứng trước dự toán ngân sách tỉnh năm 2020 số tiền 42.000trđ là chưa phù hợp với điều kiện được ứng trước dự toán năm sau quy định tại khoản 3 Điều 37 Nghị định số 163/2016/NĐ-CP.
Giao dự toán cho 02 hội không phải hội có tính chất đặc thù theo quy định tại Quyết định 68/2010/QĐ-TTg ngày 01/11/2010; còn giao dự toán 10% tiết kiệm chi thường xuyên cho các đơn vị trực thuộc để thực hiện cải cách tiền lương năm 2020, chưa đúng quy định tại khoản 2, Điều 4 Thông tư số 88/2019/TT BTC; tại các huyện được kiểm toán (thị xã Sapa, huyện Bảo Yên) điều chỉnh dự toán đã giao cho các đơn vị sử dụng ngân sách sau ngày 15 tháng 11 chưa đúng với khoản 3 Điều 53 Luật NSNN; ngân sách tỉnh còn bổ sung kinh phí chi thường xuyên trong thời gian chỉnh lý quyết toán chưa phù hợp với quy định (tại Điều 13, 14, 64, 66 Luật NSNN; Công văn 15391/BTC-KBNN ngày 11/12/2018 và Công văn số 7171/KBNN-KTNN ngày 17/12/2020 của BTC về việc hướng dẫn công tác khóa sổ kế toán niên độ 2020 trên TABMIS).
Theo kiểm toán, tại thành phố Lào Cai còn một số tồn tại: (i) Một số khoản chi thuộc nhiệm vụ chi thường xuyên nhưng không được tính toán để xác định số bổ sung cân đối ngay trong năm đầu, thời kỳ ổn định ngân sách năm 2017-2020, mà hàng năm ngân sách lại tính toán xác định là số bổ sung có mục tiêu kinh phí cho thành phố là chưa phù hợp với nguyên tắc phân cấp nhiệm vụ chi và xác định số bổ sung cân đối theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 39 và điểm a khoản 2 Điều 40 Luật NSNN.
UBND tỉnh không bố trí dự toán kinh phí cho thành phố từ nguồn thu phí bảo vệ môi trường đối với hoạt động khai thác khoáng sản trên địa bàn thành phố (hiện nguồn thu này điều tiết 100% về ngân sách tỉnh) để chỉ cho công tác bảo vệ và đầu tư cho môi trưởng của Thành phố là không đảm bảo theo quy định tại khoản 1 Điều 8 Nghị định 164/2016/NĐ-CP.
Nguồn NSNN hỗ trợ tiền lương, các khoản phụ cấp, các khoản đóng góp kết cấu trong giá dịch vụ khám chữa bệnh tại các bệnh viện còn dư 1.898trd". còn thiếu so với thực tế thực hiện 15,797trd.
Công tác quản lý và thu hồi nợ thuế: Cục Thuế tỉnh Lào Cai đã theo dõi nợ thuế nhưng chưa tổng hợp đầy đủ nợ tiền thuê đất 75.239 trđ, nợ tiền sử dụng đất 235.014 trđ vào ứng dụng quản lý thuế tập trung TMS.
Đến thời điểm kiểm toán, căn cứ phiếu chuyển thông tin của Sở Tài nguyên và Môi trường. Cục Thuế đã ban hành thông báo đơn giá mới cho 261 thửa đất hết chu kỳ ổn định đơn giá và 08 thửa đất hết thời gian miễn tiền thuê đất. Số thửa đất chưa có thông báo đơn giá mới là 11 của 11 tổ chức, nguyên nhân do Cục Thuế đã có nhiều văn bản đề nghị Sở Tài nguyên và Môi trường cung cấp thông tin địa chính làm cơ sở xác định nghĩa vụ tài chính nhưng Sở Tài nguyên và Môi trường chưa thực hiện kịp thời".
Về việc 08 thửa đất hết thời gian ổn định đơn giả năm 2020, phải xác định lại đơn giá thuê đất theo quy định tại Nghị định số 46/2014/NĐ-CP của Chính phủ (với số tiền thuê đất 01 năm theo đơn giá cũ phải nộp là 936,8trd); nguyên nhân do năm 2020, tỉnh Lào Cai thay đổi Bảng giá đất ổn định 5 năm (2020-2024) nên phải xác định lại đơn giá thuê đất theo các quy định điểm b khoản 1 và khoản 3 Điều 22 Nghị định số 46/2014/NĐ CP nhưng Cục Thuế chưa có thông tin địa chính do cơ quan Sở Tài nguyên và Môi trường cung cấp, nên cơ quan thuế chưa có cơ sở để xác định lại đơn giá thuê đất và ban hành thông báo nộp tiền thuê đất đối với 08 thửa đất trên.
Kết quả kiểm tra, đối chiếu số liệu của 51 người nộp thuế cho thấy về cơ bản người nộp thuế đã thực hiện theo Luật Quản lý thuế. Tuy nhiên, các đơn vị còn: chưa hạch toán, kê khai đủ doanh thu, chi phí và hạch toán một số khoản chi chưa đúng quy định; kê khai chưa đúng thuế GTGT đầu vào; chưa loại trừ các khoản chi không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN; chưa kê khai ưu đãi thuế theo quy định. Kết quả kiểm tra, đối chiếu xác định tổng xử lý tài chính số tiền 35.221,8 trđ.
Kết quả kiểm toán chi phí đầu tư của 38 dự án thực hiện kiểm toán chi tiết tại 10 Chủ đầu tư, KTNN kiến nghị giảm trừ 25,482trđ.
Đến thời điểm kiểm toán còn 05 công trình đã quá thời hạn thu hồi tạm ứng theo quy định tại Thông tư số 52/2018/TT-BTC ngày 24/5/2018 của Bộ Tài chính (các dự án đã hết thời gian thực hiện hợp đồng) với số tiền 8,648 tỷ đồng. (11) Tổng số nợ đọng XDCB đến hết 31/12/2020 là 620.688 trđ.
Địa phương còn để phát sinh 132.670 trđ, nợ đọng mới trong năm 2020 chưa đảm bảo theo quy định của Luật Đầu tư công và Chỉ thị 07/CT-TTg ngày 30/4/2015; Địa phương chưa bố trí đủ kế hoạch vốn ngân sách nhà nước năm 2020 để thanh toán nợ đọng xây dựng cơ bản”; đến thời điểm kiểm toán nợ đọng XDCB còn lại sau khi đã được bố trí KHV năm 2021 là 322.353 trđ (trong đó: vốn còn thiếu dự án quyết toán số tiền 47.314 trđ; vốn còn thiếu dự án hoàn thành chờ quyết toán số tiền 224.703 trđ).
email: [email protected], hotline: 086 508 6899