Cao Bằng: Hoàn thiện công tác quản lý thu NSNN
TCDN -

Khái quát về tình hình NSNN tỉnh Cao Bằng giai đoạn 2015 - 2017
Theo số liệu bảng 1: Thu ngân sách nhìn chung qua các năm đều có sự tăng trưởng nhất định. Tổng thu NSNN năm 2014 đạt khoảng 2.231.188 triệu đồng, bằng 20,57% tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP); thu NSNN năm 2015 đạt khoảng 2.456.655 triệu đồng, bằng 23,69% GRDP, tăng 10% so với năm 2014; thu NSNN năm 2016 đạt 2.396.158 triệu đồng, bằng 19,88% GRDP, giảm 2% so với năm 2015; thu NSNN năm 2017 đạt khoảng 2.518.600 triệu đồng, tăng 5% so với năm 2016 và bằng 19,22% GRDP. Tuy nhiên, có thể thấy, số thu ngân sách hàng năm không ổn định, năm 2016 giảm so với năm 2015. Giai đoạn 2015 - 2017, GRDP của tỉnh vẫn giữ mức tăng trung bình xấp xỉ 6%. Sự giảm dần tỷ trọng của thu ngân sách so với GRDP do nguyên nhân là số tuyệt đối về thu ngân sách có xu hướng tăng chậm, đây là vấn đề cần được quan tâm đối với công tác điều hành ngân sách toàn tỉnh.
Kết quả thực hiện một số chỉ tiêu chủ yếu thu, chi NSNN trong giai đoạn 2015 - 2017 (Bảng 2).

Số liệu bảng 2 cho thấy: tổng thu cân đối trên địa bàn tỉnh trong 3 năm (2015 - 2017) đạt: 7.731.413 triệu đồng, trong đó: thu nội địa đạt 3.644.127 triệu; thu xuất nhập khẩu đạt 649.555 triệu đồng. Chi ngân sách địa phương trong cân đối 3 năm (2015 - 2017) đạt 24.643.555 triệu đồng, trong đó: chi đầu tư phát triển 5.262.973 triệu đồng; chi thường xuyên 17.195.317 triệu đồng.
Như vậy, trong giai đoạn 2015 - 2017 tổng thu nội địa của tỉnh Cao Bằng chỉ đáp ứng được 21,2% (3.644.127triệu đồng/17.195.317 triệu đồng) chi thường xuyên của tỉnh, chưa kể các nhu cầu chi cho đầu tư phát triển do Trung ương bổ sung từ các Chương trình mục tiêu Quốc gia, chi cho các mục tiêu do Trung ương cân đối bổ sung, vì vậy chi tiêu của tỉnh Cao Bằng chủ yếu nhận trợ cấp từ NSTƯ.
Đánh giá tình hình quản lý thu NSNN tại tỉnh Cao Bằng
Kết quả đạt được
-
Thu ngân sách hàng năm cao hơn năm trước, tốc độ tăng thu cao và đều qua các năm. Thu ngân sách đã góp phần quan trọng trong thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ các cấp địa phương nhiệm kỳ 2010 - 2015 và Quy hoạch tổng thể phát triển KT - XH tỉnh đến năm 2020.
-
Lập dự toán thu NSNN đã thực hiện đúng quy trình, thủ tục và thời gian, đã có sự phối hợp giữa các cấp, các ngành và sự chỉ đạo của chí́nh quyền địa phương. Trong phân bổ và giao dự toán cho các đơn vị trực thuộc, các huyện, thành phố cơ bản đã đảm bảo sự phù hợp giữa kế hoạch thu đề ra với tiềm năng, lợi thế, định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Quyết toán thu cơ bản thực hiện đảm bảo đúng theo các quy định của nhà nước về trình tự thủ tục, thời gian quyết toán.
-
Công khai quy trình thu nộp ngân sách, cơ quan thuế, hải quan, Kho bạc Nhà nước đã hướng dẫn tận tình cho khách hàng về các nội dung thủ tục nộp ngân sách đảm bảo thuận tiện và nhanh chóng cho cả đơn vị quản lý lẫn đối tượng nộp. Triển khai thực hiện Đề án hiện đại hóa thu NSNN, kết nối liên thông giữa các đơn vị thuộc ngành Tài chí́nh, Thuế, Hải quan và Kho bạc Nhà nước đảm bảo đồng bộ về số liệu, nhanh chóng về thông tin, chí́nh xác trong thực hiện quản lý các đối tượng nộp cũng như số tiền nộp vào ngân sách.
-
Tổ chức đội ngũ làm công tác thu đã được củng cố, tăng cường. Chất lượng về năng lực và phẩm chất đạo đức ngày càng nâng cao để đáp ứng được các yêu cầu đổi mới quản lý thu.
Công tác quản lý thu ngân sách đã góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo quy hoạch tổng thể phát triển KT - XH tỉnh Cao Bằng đến năm 2020, đảm bảo khuyến khí́ch công nghiệp và dịch vụ phát triển góp phần thay đổi cơ cấu trong GRDP và thu ngân sách theo hướng bền vững, tí́ch cực và hiệu quả.
Tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, quản lý thu NSNN của tỉnh trong thời gian qua còn có nhiều hạn chế, cụ thể:
Một là, phân cấp quản lý thu ngân sách còn bất cập.
Phân cấp quản lý nguồn thu và nhiệm vụ chi NSNN giữa NSTƯ và ngân sách địa phương (NSĐP) còn có điểm chưa phù hợp với thực tế. Theo Luật NSNN, thu từ thuế xuất nhập khẩu điều tiết về Trung ương 100%, nếu vượt thu cũng không được điều tiết trở lại, nên địa phương không quan tâm nhiều đến chỉ đạo đôn đốc tăng khoản thu này. Theo Quy định phân cấp của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Cao Bằng, phân cấp thu và tỷ lệ phân chia nguồn thu ngân sách hiện nay chưa đảm bảo số thu ngân sách hàng năm của ngân sách cấp huyện và ngân sách cấp xã đủ lớn để chủ động nguồn ngân sách cho chi tiêu hàng năm, cũng như chưa khuyến khí́ch các địa phương nuôi dưỡng nguồn thu và nâng cao hiệu quả quản lý thu ngân sách. Tổ chức bộ máy quản lý thu ngân sách tại tỉnh hiện nay 4 đầu mối chí́nh gồm: Sở Tài chí́nh, Cục Thuế, Cục Hải quan, Kho bạc Nhà nước, nhưng chỉ có Sở Tài chí́nh là cơ quan trực thuộc UBND tỉnh, còn lại cơ quan Cục Thuế, Cục Hải quan và Kho bạc Nhà nước trực thuộc Trung ương (ngành dọc). Do đó, sự phối hợp giữa các cơ quan nói trên trong quản lý thu NSNN còn nhiều bất cập, một số nơi còn gặp khó khăn, vướng mắc chưa được xử lý và tháo gỡ kịp thời.
Hai là, dự toán thu chưa sát thực tế, còn thấp so với khả năng nguồn thu có thể thực hiện, do đó chí́nh quyền địa phương và các đơn vị quản lý thu chưa quyết liệt, chưa có nhiều đề xuất giải pháp tăng thu NSNN được giao hàng năm.
Công tác lập dự toán thu NSNN chưa có cơ sở vững chắc, còn mang yếu tố chủ quan, cảm tí́nh, một số khoản còn mang tí́nh chất tập hợp, chưa có sự kiểm tra, xét duyệt. Dự toán thu thấp, nhu cầu chi NSNN các cấp của tỉnh Cao Bằng chủ yếu được trợ cấp từ cấp trên (cấp xã chờ bổ sung từ cấp huyện, cấp huyện chờ bổ sung từ cấp tỉnh, cấp tỉnh chờ bổ sung dự toán từ NSTƯ). Do đó, quản lý thu NSNN của chí́nh quyền các cấp chỉ tập trung vào thực hiện các giải pháp để đạt kế hoạch thu ngân sách được giao hàng năm, cá biệt có địa phương không muốn chỉ đạo tăng thu cao vì lo ngại cấp trên giao bổ sung tăng thu vào cuối năm hoặc giao dự toán thu năm sau tăng cao.
Ba là, tổ chức thực hiện dự toán thu NSNN tại địa phương còn hạn chế, yếu kém.
-
Tập trung các khoản thu chưa kịp thời vào ngân sách để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của địa phương. Một số địa phương cấp huyện, cấp xã chưa có biện pháp đôn đốc thu NSNN ngay từ đầu năm, số thu vào ngân sách chỉ được đôn đốc thu tập trung vào các tháng cuối năm, nhất là các ngày cuối năm để đạt và vượt kế hoạch được giao.
-
Cơ cấu thu ngân sách chưa mang tí́nh bền vững cho ngân sách. Cụ thể: Thu NSĐP còn phụ thuộc nhiều vào nguồn thu từ các doanh nghiệp khai thác khoáng sản. Tỷ lệ nguồn thu từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất không ổn định, chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh.
Thu từ xuất nhập khẩu chiếm tỷ trọng chưa cao trong cơ cấu thu ngân sách; công tác tổ chức quản lý thu phí́ thăm quan các điểm di tí́ch lịch sử, danh lam thắng cảnh còn nhiều yếu kém, số thu chưa đạt theo yêu cầu.
Bốn là, quyết toán chậm và còn mang tí́nh hình thức, chưa đảm bảo được ý nghĩa của công tác quyết toán, báo cáo quyết toán chưa được công khai theo quy định.
Quyết toán ngân sách còn chậm do việc đối chiếu, điều chỉnh số liệu giữa các đơn vị liên quan đến công tác quản lý thu NSNN. Trong quyết toán thu, ý nghĩa của công tác quyết toán chưa thực sự được thực hiện đầy đủ, chỉ xem công tác quyết toán là việc tổng hợp lại các khoản thu trong năm của địa phương.
Năm là, năng lực, trình độ của cán bộ thanh, kiểm tra, nhất là cán bộ thanh, kiểm tra thuế còn yếu. Do đó, còn bỏ sót sai phạm của các doanh nghiệp liên quan đến quá trình thu nộp thuế. Mặt khác, số lượng cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra thuế tại cơ quan thuế còn í́t so với số lượng doanh nghiệp trên địa bàn.
Sáu là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, chưa khuyến khí́ch được phát triển sản xuất để bồi dưỡng, tạo mới nguồn thu cho ngân sách, tỷ lệ động viên vào ngân sách so với GRDP còn thấp. Cụ thể: công nghiệp hoá nông thôn phát triển chậm; cơ sở hạ tầng phục vụ cho công nghiệp còn hạn chế, có tiềm năng về kinh tế cửa khẩu và dịch vụ du lịch, nhưng hoạt động thương mại, dịch vụ phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thiếu ổn định. Kinh tế nông thôn chuyển dịch chưa rõ nét và thiếu bền vững, tỷ trọng nông, lâm, thủy sản trong cơ cấu kinh tế huyện còn khá cao; sản xuất lương thực vẫn đóng vai trò chủ yếu.
Sự chuyển dịch kinh tế theo hướng CNH - HĐH chậm; chưa khuyến khí́ch được mở rộng, mở mới, phát triển sản xuất, do đó giá trị sản xuất tạo ra cho xã hội chưa cao; “GRDP bình quân đầu người năm 2016 là 20.799.000 đồng” mức động viên vào NSNN hàng năm thấp hơn so với mức trung bình của cả nước và tăng lên chậm do có í́t nguồn thu để làm cơ sở cho tăng thu.
Giải pháp hoàn thiện quản lý thu NSNN
Thứ nhất, thúc đẩy phát triển KT - XH gắn với lợi thế so sánh của địa phương
-
Về dịch vụ du lịch, cần đẩy mạnh các hoạt động xây dựng sản phẩm du lịch Cao Bằng độc đáo, đậm đà bản sắc gắn với Công viên Địa chất Non Nước Cao Bằng; kết hợp giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc với bảo tồn môi trường sinh thái, địa chất địa mạo, nâng cao nhận thức của cộng đồng về du lịch và huy động các nguồn lực xây dựng các dự án cải tạo, nâng cấp các cơ sở hạ tầng du lịch.
-
Phát triển Kinh tế cửa khẩu: Tập trung phát triển Khu kinh tế cửa khẩu tỉnh Cao Bằng trên cơ sở sát nhập 3 khu kinh tế cửa khẩu Tà Lùng, Trà Lĩnh, Sóc Giang được Thủ tướng Chí́nh Phủ phê duyệt năm 2014. Trong đó mục tiêu phát triển và giải pháp là: phát triển Khu Kinh tế cửa khẩu phải gắn kết chặt chẽ với phát triển tổng thể KT - XH tỉnh Cao Bằng, đưa khu vực trở thành một trọng điểm gắn kết với các hoạt động sản xuất, thương mại dịch vụ trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.
-
Về công nghiệp: Đẩy nhanh tiến độ xây dựng, sớm đưa vào khai thác vận hành 08 dự án thủy điện trên địa bàn như: thủy điện Bảo Lâm 1, Bảo Lâm 3, Bảo Lâm 3A, Hoa Thám, Khuổi Luông, Thân Giáp, Hòa Thuận, Pác Khuổi. Tạo điều kiện hỗ trợ các Chủ đầu tư thiện hồ sơ, sớm triển khai xây dựng 04 dự án thủy điện: Thủy điện Tiên Thành và 03 dự án thủy điện trên sông Gâm (Bảo Lâm 2, Bảo Lâm 2A, Mông Ân).
-
Về nông nghiệp: Ưu tiên ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra các giống cây trồng, vật nuôi và quy trình nuôi trồng, bảo quản, chế biến, tạo chuyển biến tí́ch cực về năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất, đạt giá trị cao nhất trên một đơn vị diện tí́ch đất nông nghiệp. Phát triển sản phẩm nông nghiệp đặc sản của địa phương như: trúc sào, miến dong, thạch đen, chè, bò, lợn đen…
Thứ hai, bồi dưỡng các nguồn thu, từng bước xây dựng cơ cấu thu ngân sách bền vững
-
Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng, công bằng, có chí́nh sách bảo vệ sự phát triển của tất cả các thành phần kinh tế.
-
Chí́nh sách thuế, phí́, lệ phí́ phải hướng đến mức động viên vừa phải hợp lý, phù hợp từng thời kỳ.
-
Cân nhắc đến tí́nh bền vững trong cơ cấu ngân sách, cần có định hướng tăng tỷ trọng thu nội địa trong thu ngân sách trên địa bàn tỉnh đảm bảo cân đối chi NSNN , trong thu nội địa cần tăng tỷ lệ các khoản thu từ thuế, phí́, lệ phí́, huy động các khoản thu từ đất một cách hợp lý phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội.
Thu NSĐP cần tập trung bồi dưỡng các nguồn thu từ phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ dựa trên lợi thế so sánh và các khoản thu tiềm năng của địa phương đóng góp vào ngân sách.
Thứ ba, tăng cường phân cấp nguồn thu NSĐP nhằm nâng cao tính chủ động và hiệu quả quản lý thu ngân sách
Phân cấp các nguồn thu mà ngân sách tỉnh được hưởng theo quy định cho ngân sách cấp huyện và ngân sách cấp xã dựa trên cơ sở đánh giá khả năng cân đối ngân sách, điều kiện phát triển KT - XH, cơ cấu nguồn thu mỗi địa phương. Đánh giá mức độ tự cân đối ngân sách các địa phương cấp huyện, cấp xã (lưu ý xác định mức độ tự chủ của ngân sách Thành phố, mức độ tự chủ của các phường thuộc thành phố và các thị trấn thuộc huyện); trên cơ sở đó đưa ra các tỷ lệ phân chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách cho phù hợp hơn, chí́nh xác hơn.
Thứ tư, hoàn thiện chu trình quản lý thu NSNN
-
Công tác lập dự toán
Lập dự toán thu NSNN các cấp hằng năm phải thực hiện theo đúng quy trình, trên cơ sở căn cứ số kiểm tra của cơ quan tài chí́nh cấp trên; các kế hoạch, mục tiêu phát triển KT - XH trong năm dự toán cần dựa chủ yếu trên tình hình phát triển KT - XH cũng như tình hình thu chi NSNN của năm hiện hành, phân tí́ch đánh giá khách quan trên cơ sở căn cứ khoa học. Có như vậy, dự toán lập ra với sát với tình hình thực tế, sát với khả năng thu của các cấp NSĐP, đơn vị.
-
Công tác chấp hành dự toán thu ngân sách
Các ngành, các cấp chí́nh quyền địa phương chủ động xây dựng kế hoạch, kịch bản thu và tổ chức thực hiện thu theo tháng, quý, tránh tập trung chỉ đạo huy động thu ngân sách dồn vào cuối năm làm ảnh hưởng đến thực hiện các nhiệm vụ chi ngân sách, nhất là các nhiệm vụ chi trọng điểm.
-
Công tác quyết toán
Khi báo cáo quyết toán số liệu thu cần tổng hợp đầy đủ mẫu biểu, có phân tí́ch đánh giá tổng quát, đánh giá cụ thể theo các tiêu chí́ cơ bản, các nội dung thu ngân sách, từ đó chỉ ra các nguyên nhân làm tăng thu, giảm thu ngân sách để điều chỉnh kế hoạch năm tiếp theo hoặc đề ra các biện pháp khắc phục tồn tại kịp thời trong công tác chỉ đạo, điều hành.
Thứ năm, hoàn thiện công tác thanh tra, kiểm tra
-
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nợ đọng thuế, trốn thuế nhằm đảm bảo thu hồi kịp thời số nợ thuế vào NSNN. Theo đó, tập trung đẩy mạnh việc phối hợp giữa bộ phận quản lý nợ với các bộ phận thực hiện chức năng khác như kê khai, thanh tra, kiểm tra thuế; Phối hợp với người nộp thuế, ngân hàng thương mại, tổ chức tí́n dụng, Tài chí́nh, Kho bạc Nhà nước, cơ quan Kế hoạch và Đầu tư… thực hiện phân loại các khoản nợ thuế và đôn đốc thu hồi tiền thuế còn nợ vào NSNN. Kiên quyết thực hiện cưỡng chế theo đúng luật đối với các trường hợp cố tình trốn thuế, nợ thuế.
-
Trong quá trình thanh tra, kiểm tra, ngành Thuế cần thực hiện so sánh giữa doanh thu và chi phí́ của những cơ sở có quy mô kinh doanh và điều kiện như nhau, so sánh doanh thu, chi phí́ kì trước với kì này, xem các nội dung được đưa vào chi phí́ của DN có hợp lý hay không để có sự điều chỉnh kịp thời.
-
Kịp thời rà soát tình hình tạm nộp thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) và lợi nhuận hàng quý, để đôn đốc các doanh nghiệp nộp sát số thuế TNDN theo kết quả sản xuất kinh, doanh hàng quý.
-
Chỉ đạo thực hiện nghiêm các kết luận thanh tra và việc xử lý sau thanh, kiểm tra, kiểm toán đối với những trường hợp vi phạm quy định pháp luật về Thuế, vi phạm Luật NSNN...
-
Kiện toàn nhân lực thanh tra, kiểm tra các cấp theo hướng tăng cường lực lượng cho công tác thanh tra, kiểm tra. Đẩy mạnh công tác đào tạo, tập huấn, trao đổi nghiệp vụ nhằm nâng cao năng lực và kỹ năng cho công chức làm công tác thanh tra, kiểm tra.
Thứ sáu, thực hiện có hiệu quả nhóm giải pháp chuyên môn, nghiệp vụ nhằm thúc đẩy công tác quản lý thu NSNN
Trong đó tập trung vào các vấn đề như: Củng cố tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực, trình độ của cán bộ quản lý thu; ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý thu nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu ngân sách. Tăng cường sự phối hợp giữa các ngành tại địa phương trong quản lý thu NSNN.
email: [email protected], hotline: 086 508 6899