Cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước: Rà sát quỹ đất, giám sát từ khâu lập kế hoạch
TCDN - Các doanh nghiệp sau cổ phần hóa có xu hướng tăng trưởng ổn định, tỷ lệ vốn nhà nước góp tại các CTCP có xu hướng dịch chuyển gắn liền với quá trình tái cơ cấu, cổ phần hóa DNNN. Tuy nhiên, tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn vẫn chậm, đòi hỏi phải có biện pháp mạnh ngay từ khâu lập kế hoạch.
Doanh nghiệp thuộc diện cổ phần hóa phải rà soát quỹ đất
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, trong năm 2019 có 09 doanh nghiệp được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án cổ phần hóa, trong đó chỉ có 03 doanh nghiệp thuộc danh mục các doanh nghiệp cổ phần hóa theo công văn số 991/ TTg-ĐMDN (02 doanh nghiệp) và Quyết định số 26/2019/QĐ-TTg (01 doanh nghiệp).
Lũy kế giai đoạn 2016 - 2019, có 168 doanh nghiệp được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án cổ phần hóa với tổng giá trị doanh nghiệp là 443.056 tỷ đồng, trong đó giá trị vốn nhà nước là 206.694 tỷ đồng.
Tuy nhiên, trong 168 doanh nghiệp đã cổ phần hóa chỉ có 36/168 doanh nghiệp cổ phần hóa thuộc danh mục 128 doanh nghiệp cổ phần hóa theo công văn số 991/ TTg-ĐMDN và Quyết định số 26/2019/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (đạt 28% kế hoạch), số doanh nghiệp còn phải thực hiện cổ phần hóa theo kế hoạch tính đến hết năm 2020 là 92 doanh nghiệp.
Đối với tình hình thoái vốn theo Quyết định số 1232/QĐ-TTg, giai đoạn 2017 - 2020 thực hiện thoái khoảng 60.000 tỷ đồng vốn nhà nước tại các doanh nghiệp.
Trong năm 2019, có 13 doanh nghiệp thuộc danh mục ban hành theo Quyết định số 1232/QĐ-TTg thực hiện thoái vốn với giá trị 896 tỷ đồng, thu về 1.839 tỷ đồng.
Lũy kế từ năm 2017 - 2019, thoái vốn nhà nước tại 92 đơn vị thuộc Quyết định số 1232/QĐ-TTg ngày 17/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ với giá trị 4.704 tỷ đồng, thu về 8.964 tỷ đồng.
Tổng số thoái vốn năm 2019, thoái 2.687 tỷ đồng, thu về 5.098 tỷ đồng. Lũy kế tổng số thoái vốn từ năm 2016 - 2019, thoái 24.769 tỷ đồng, thu về 171.072 tỷ đồng.
Theo ông Đặng Quyết Tiến, Cục trưởng Cục Tài chính doanh nghiệp, Bộ Tài chính, cổ phần hóa, thoái vốn có tác động tích cực tới sự phát triển của thị trường chứng khoán, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Hầu hết các DNNN, sau cổ phần hóa đều sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, nộp ngân sách và thu nhập của người lao động được nâng lên.
Tuy nhiên, tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn, phê duyệt phương án cơ cấu chậm, không đạt kế hoạch đã đề ra. Đó là, chậm quyết toán bàn giao sang công ty cổ phần; chậm bàn giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước về SCIC, chưa đảm bảo kế hoạch theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp chậm đăng ký giao dịch, niêm yết trên thị trường chứng khoán làm ảnh hưởng đến tính công khai, minh bạch của thị trường. Đồng thời, chậm đổi mới công tác quản trị doanh nghiệp sau cổ phần theo thông lệ và chuẩn mực của các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán, cũng như hạn chế công tác giám sát của toàn xã hội đối với hoạt động của các doanh nghiệp này.
Để tiếp tục đẩy mạnh nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, ông Đặng Quyết Tiến cho rằng, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, khung khổ pháp lý về tổ chức quản lý và hoạt động của DNNN và doanh nghiệp có vốn nhà nước về cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại doanh nghiệp.
Các DNNN thuộc diện cổ phần hóa khẩn trương rà soát toàn bộ quỹ đất đang quản lý, sử dụng để lập phương án sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai. Từ đó, trình UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có ý kiến về phương án và giá đất để cấp có thẩm quyền phê duyệt trước khi tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa theo đúng quy định.
Với cơ quan đại diện chủ sở hữu, chỉ đạo người đại diện phần vốn nhà nước đôn đốc các doanh nghiệp đã cổ phần hóa thực hiện nghiêm việc đăng ký giao dịch, niêm yết trên thị trường chứng khoán theo quy định của pháp luật. Đối với các doanh nghiệp đã cổ phần hóa và chuyển sang hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần phải thực hiện quyết toán cổ phần hóa theo quy định. Trường hợp không đảm bảo thời gian phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ giải trình rõ nguyên nhân và chịu trách nhiệm về sự chậm trễ này.
Tăng trưởng ổn định
Đối với các doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp của Nhà nước, báo cáo của Bộ Tài chính cho thấy, năm 2018, tổng tài sản theo báo cáo hợp nhất của các doanh nghiệp cổ phần là 777.315 tỷ đồng, tăng 2% so với thực hiện năm 2017.
Vốn chủ sở hữu theo báo cáo hợp nhất của các doanh nghiệp cổ phần năm 2018 là 305.498 tỷ đồng, tăng 9% so với năm 2017. Trong đó, vốn nhà nước góp tại các công ty cổ phần là 164.133 tỷ đồng, tăng 6% so với thực hiện năm 2017.
Năm 2018, tổng doanh thu của các doanh nghiệp cổ phần đạt 643.816 tỷ đồng, tăng 14% so với năm 2017; Tổng lợi nhuận kế toán trước thuế theo báo cáo hợp nhất là 48.822 tỷ đồng, tăng 8% so với số thực hiện năm 2017; Tỷ suất Lãi phát sinh trước thuế/Vốn chủ sở hữu bình quân và tỷ suất Lãi phát sinh trước thuế/Tài sản bình quân của các doanh nghiệp có vốn nhà nước năm 2018 lần lượt là 16% và 6%. Theo báo cáo hợp nhất của các doanh nghiệp cổ phần thì có 59 doanh nghiệp với tổng số lỗ phát sinh là 3.258 tỷ đồng.
Tổng số phát sinh phải nộp NSNN Năm 2018 của các doanh nghiệp cổ phần đạt 99.729 tỷ đồng, tăng 6% so với năm 2017. Trong đó, số phát sinh phải nộp NSNN từ hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu chiếm 93% tổng số phát sinh phải nộp NSNN của các doanh nghiệp cổ phần”, ông Tiến cho biết thêm.
Theo đánh giá của Cục Tài chính doanh nghiệp, các doanh nghiệp sau cổ phần hóa vẫn có xu hướng tăng trưởng ổn định, tỷ lệ vốn nhà nước góp tại các công ty cổ phần có xu hướng dịch chuyển gắn liền với quá trình tái cơ cấu, cổ phần hóa DNNN. Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ tại 180 doanh nghiệp cổ phần, chủ yếu tập trung tại các tập đoàn, tổng công ty lớn và các doanh nghiệp cung ứng, sản phẩm, dịch vụ công ích sau khi thực hiện cổ phần hóa.
Tuy nhiên, vẫn còn một số doanh nghiệp sau cổ phần hóa hoạt động kém hiệu quả, kinh doanh thua lỗ nên không bảo toàn được vốn chủ sở hữu. Do vậy, Bộ Tài chính kiến nghị Thủ tướng Chính phủ giao các cơ quan đại diện chủ sở hữu căn cứ thực tế tại đơn vị để kiểm điểm, làm rõ trách nhiệm các cá nhân liên quan không thực hiện nhiệm vụ cơ quan đại diện chủ sở hữu; trong đó, có việc không thực hiện gửi Báo cáo kết quả giám sát tài chính về Bộ Tài chính để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Ngoài ra, để việc giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả hoạt động doanh nghiệp đạt hiệu quả, Bộ Tài chính kiến nghị các cơ quan đại diện chủ sở hữu tập trung vào giám sát trước, giám sát ngay từ khi lập kế hoạch sản xuất, kinh doanh, lập dự án đầu tư, huy động vốn, đảm bảo sử dụng hiệu quả nguồn vốn.
Đồng thời, thực hiện giao kế hoạch sản xuất, kinh doanh phải bám sát tình hình thực tế doanh nghiệp có tính đến biến động chung của thị trường, tránh giao chỉ tiêu quá thấp, dễ đạt được, ảnh hưởng đến chất lượng công tác xếp loại doanh nghiệp. Cùng với đó, giám sát chặt chẽ các doanh nghiệp có dấu hiệu mất an toàn về tài chính.
Hạnh Trần
email: [email protected], hotline: 086 508 6899