Diễn đàn nâng cao vị thế doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi cung ứng năng lượng toàn cầu
TCDN - Chiều 24/6, Tạp chí Tài chính doanh nghiệp phối hợp với các bên liên quan cùng sự đồng hành của Petrovietnam tổ chức "Diễn đàn nâng cao vị thế doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi cung ứng năng lượng toàn cầu" tại Trung tâm hội nghị quốc tế, số 35 Hùng Vương, Ba Đình, Hà Nội.

Đây là diễn đàn đa chiều để các chuyên gia, nhà hoạch định chính sách và các nhà nghiên cứu thảo luận, chia sẻ và đề xuất các giải pháp nhằm giải quyết các vấn đề đang đặt ra. Qua đó, giúp khai thác và phát triển toàn diện tiềm năng của ngành Năng lượng, đáp ứng được những thách thức hiện tại và tương lai.
Diễn đàn có sự tham gia của:
- PGS.TS. Ngô Trí Long - nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu thị trường giá cả - Bộ Tài chính
- TS. Ngô Đức Lâm - nguyên Phó Viện trưởng Viện Năng lượng, Bộ Công Thương
- Ông Trần Văn Giang, Trưởng ban Điện lực - Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam
- Ông Trần Viết Nguyên - Phó trưởng Ban Kinh doanh và Mua bán điện - Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN)
- TS. Nguyễn Đạt Minh – Trưởng khoa Quản lý công nghệ và Năng lượng – Đại học Điện lực
- Ông Phạm Anh Cường - Nhà sáng lập kiêm Giám đốc điều hành Hệ sinh thái Khởi nghiệp BestB

TS Hà Khắc Minh, Tổng biên tập Tạp chí Tài chính doanh nghiệp phát biểu khai mạc Diễn đàn.
Phát biểu khai mạc Diễn đàn, TS Hà Khắc Minh, Tổng biên tập Tạp chí Tài chính doanh nghiệp cho hay, bối cảnh thế giới bước vào giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ sang nền kinh tế carbon thấp, chuỗi cung ứng năng lượng toàn cầu đang trải qua những thay đổi sâu sắc. Các yếu tố như biến đổi khí hậu, bất ổn địa chính trị, tiến bộ công nghệ và yêu cầu về phát triển bền vững đang tạo ra áp lực buộc các quốc gia và doanh nghiệp phải tái định hình chiến lược năng lượng, trong đó chuỗi cung ứng đóng vai trò cốt lõi.
Với vị trí địa lý chiến lược, đường bờ biển dài, khí hậu nhiệt đới gió mùa với lượng bức xạ mặt trời và tốc độ gió cao, đặc biệt là tại miền Trung và Tây Nguyên, tạo thuận lợi cho Việt Nam phát triển điện mặt trời, điện gió và năng lượng sinh khối – các nguồn đang là trọng tâm trong chiến lược năng lượng toàn cầu. Bên cạnh đó, Việt Nam nằm gần các trung tâm sản xuất năng lượng tái tạo và chuỗi cung ứng thiết bị lớn như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, dễ dàng kết nối với chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.
Những năm gần đây, Đảng và nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm chuyển dịch năng lượng theo hướng bền vững. Nghị quyết số 55-NQ/TW, ngày 11/2/2020, của Bộ Chính trị, “về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, đã xác định các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp về chuyển dịch năng lượng thời gian tới. Quyết định số 1658/QĐ-TTg, ngày 1/10/2021, của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn năm 2050, cũng đặt ra các mục tiêu phát triển nền kinh tế xanh đến năm 2030 và năm 2050.
Tại COP26 và COP28, Việt Nam cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 – một thông điệp mạnh mẽ về quyết tâm chuyển đổi xanh. Đặc biệt, Quy hoạch điện VIII (ban hành ngày 26/7/2023) thể hiện cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong phát triển năng lượng sạch.
Ngoài ra, các chính sách ưu đãi đầu tư, cải cách thủ tục hành chính, cùng việc mở rộng hợp tác quốc tế đang giúp Việt Nam từng bước xây dựng nền công nghiệp năng lượng hiện đại và hội nhập. Đây là những động thái rất rõ ràng và trực tiếp để đảm bảo với các nhà đầu tư nước ngoài rằng Việt Nam cam kết và quyết tâm thực hiện, tạo mọi điều kiện thuận lợi, giảm rủi ro cho các nhà đầu tư, Việt Nam mong muốn thu hút các khoản đầu tư lớn hơn nữa, đầu tư chất lượng hơn trong phát triển xanh, chuyển dịch năng lượng.
Tuy nhiên, dù có tiềm năng lớn, Việt Nam vẫn đối mặt với nhiều rào cản như: Khung pháp lý chưa ổn định, thiếu nhất quán giữa các cấp quản lý; Hạ tầng lưới điện chưa đáp ứng được tốc độ phát triển của năng lượng tái tạo; Nguồn nhân lực kỹ thuật cao còn thiếu, công nghiệp hỗ trợ yếu; Hệ thống tài chính xanh còn sơ khai, khó tiếp cận nguồn vốn dài hạn.
Thêm nữa, vai trò hiện tại trong chuỗi cung ứng còn hạn chế. Việt Nam hiện chủ yếu đóng vai trò thị trường tiêu thụ công nghệ năng lượng (đặc biệt là năng lượng tái tạo), với sự hiện diện ngày càng nhiều của các doanh nghiệp FDI trong phát triển dự án và cung cấp thiết bị. Trong sản xuất thiết bị, Việt Nam bước đầu tham gia vào gia công, lắp ráp linh kiện (như tấm pin mặt trời, trụ gió, cánh quạt...) nhưng chưa làm chủ được công nghệ cốt lõi. Các doanh nghiệp trong nước còn hạn chế về năng lực công nghệ, tài chính và kết nối chuỗi.

Diễn đàn thu hút sự quan tâm đông đảo của các chuyên gia và doanh nghiệp.
Bài toán đặt ra đối với Việt Nam hiện nay là để trở thành trung tâm trong chuỗi cung ứng năng lượng toàn cầu, Việt Nam cần định hướng thực hiện một chiến lược phát triển hạn chế phát thải carbon trong dài hạn và trung hòa carbon vào năm 2050 phù hợp với xu thế chung trên thế giới. Bên cạnh những lợi ích về môi trường, chiến lược này có thể đem lại cho Việt Nam một số hiệu quả về kinh tế và tài chính vượt trội so với một lộ trình các-bon cao. Theo đó, Việt Nam cần xây dựng môi trường đầu tư minh bạch, ổn định; Đẩy mạnh phát triển công nghiệp phụ trợ, logistics và hạ tầng số; Hợp tác sâu hơn với các quốc gia và doanh nghiệp quốc tế trong nghiên cứu, sản xuất và đào tạo; Thúc đẩy tài chính xanh, huy động vốn tư nhân và nguồn lực quốc tế.
Để có đầy đủ thông tin tham mưu cho các cơ quan chức năng giải quyết những khó khăn, vướng mắc, nâng cao hiệu quả chính sách, Tạp chí Tài chính doanh nghiệp phối hợp với các bên liên quan tổ chức Diễn đàn nâng cao vị thế doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi cung ứng năng lượng toàn cầu.

TS. Ngô Đức Lâm – nguyên Phó viện trưởng Viện Năng lượng, Bộ Công Thương.
TS. Ngô Đức Lâm – nguyên Phó viện trưởng Viện Năng lượng, Bộ Công Thương
Theo TS. Ngô Đức Lâm, năng lượng nói chung và điện năng nói riêng giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Đây là yếu tố nền tảng, cấu thành cơ sở hạ tầng thiết yếu, bảo đảm an ninh quốc gia và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
Ông khẳng định: “Năng lượng là vấn đề cơ bản, cốt yếu cho phát triển kinh tế. Phát triển điện lực phải đi trước một bước. Muốn hôm nay đủ năng lượng cho tăng trưởng, thì 5-10 năm trước phải đầu tư phát triển ngành điện.”
Vì đóng vai trò thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ngành năng lượng – đặc biệt là điện năng – luôn cần phát triển với tốc độ cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP để bảo đảm nguồn cung ổn định, kịp thời, đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của toàn xã hội. Chẳng hạn, nếu GDP tăng 6%, ngành năng lượng cần tăng trưởng 8–9%; nếu GDP tăng 8%, năng lượng cần tăng tương ứng 10–11% và tiếp tục duy trì tỷ lệ này trong các năm tới.
TS. Lâm cho rằng, cả cung ứng và tiêu dùng năng lượng đều cần được quan tâm đồng đều để đảm bảo hiệu quả và giữ vững an ninh năng lượng quốc gia. Chuỗi cung ứng năng lượng là một hệ thống liên kết chặt chẽ, từ sản xuất (các nhà máy điện), truyền tải, phân phối đến bán lẻ cho người tiêu dùng cuối cùng.
Tại Việt Nam, chuỗi cung ứng này bao gồm nhiều loại hình năng lượng: than, dầu khí, thủy điện, năng lượng tái tạo như gió, mặt trời, thủy triều, địa nhiệt, sinh khối, biogas... Trong giai đoạn 2010–2020, năng lượng hóa thạch (than và dầu khí) vẫn chiếm tỷ trọng lớn, có năm lên tới 60% tổng nhu cầu năng lượng quốc gia. Trước năm 2020, cơ cấu công suất hệ thống điện quốc gia gồm: thủy điện chiếm 20–25%, nhiệt điện than 30%, dầu khí 20%, phần còn lại là điện nhập khẩu và các nguồn khác. Trong khi đó, năng lượng tái tạo vẫn còn ở giai đoạn nghiên cứu, chưa phát triển ở quy mô thương mại.
Tuy nhiên, Việt Nam đang chứng kiến một quá trình chuyển dịch năng lượng mạnh mẽ. Trong chưa đầy một thập kỷ, tỷ trọng năng lượng tái tạo đã tăng từ gần 0% lên khoảng 60% trong cơ cấu nguồn điện. So với khu vực và thế giới, Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có tốc độ chuyển dịch năng lượng nhanh nhất, hiện dẫn đầu ASEAN trong lĩnh vực năng lượng tái tạo.

Diễn đàn có sự tham gia của các chuyên gia, doanh nghiệp.
TS. Lâm cho biết, toàn bộ điện năng phục vụ tăng trưởng GDP của Việt Nam sẽ từng bước được chuyển sang khai thác từ năng lượng tái tạo, chủ yếu là điện gió và mặt trời. Tỷ trọng các nguồn này tăng từ 0% (năm 2015) lên 20% (2020), dự kiến đạt 50% vào năm 2030 và còn có thể cao hơn. Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia chuyển dịch năng lượng mạnh mẽ nhất châu Á.
Tuy vậy, sự gia tăng nhanh chóng của năng lượng tái tạo cũng đặt ra những thách thức lớn trong vận hành lưới điện, do tính không ổn định và phụ thuộc vào thời tiết. Việt Nam buộc phải đầu tư mạnh vào chuyển đổi số ngành năng lượng, xây dựng lưới điện thông minh và hệ thống lưu trữ điện quy mô lớn như thủy điện tích năng, pin và ắc quy.
Theo TS. Lâm, quá trình chuyển dịch năng lượng mở ra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng năng lượng. Để đạt mục tiêu hơn 183.000 MW công suất nguồn điện vào năm 2030 và xây dựng hệ thống truyền tải tương ứng, Việt Nam cần khoảng 200 tỷ USD đầu tư trong 10 năm tới – tức trung bình 20 tỷ USD/năm.
Với quy mô đầu tư lớn, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không thể gánh vác một mình. Việc xã hội hóa đầu tư là tất yếu, tạo cơ hội cho các tập đoàn dầu khí, than, cũng như các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia cạnh tranh trong chuỗi giá trị.
Đặc điểm phân tán của năng lượng tái tạo (quy mô nhà máy nhỏ, vốn đầu tư thấp, thời gian xây dựng nhanh) phù hợp với khả năng tài chính và tổ chức của nhiều doanh nghiệp trong nước. Điều này tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ, hoặc liên doanh với địa phương tham gia vào các khâu đầu tư, xây dựng, vận hành, cung cấp thiết bị và dịch vụ kỹ thuật.
Về mặt pháp lý, nhà nước đã xác định rõ chủ trương xã hội hóa ngành năng lượng, chống độc quyền, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia. Nghị quyết 55-NQ/TW của Bộ Chính trị (năm 2020) là "chìa khóa" mở đường cho chiến lược phát triển năng lượng quốc gia, trong đó nhấn mạnh vai trò chủ lực của khu vực tư nhân trong đầu tư và vận hành hệ thống năng lượng.
Cùng với đó, các chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân cũng không ngừng được ban hành, tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi, là nền tảng để doanh nghiệp Việt tích cực tham gia vào chuỗi cung ứng năng lượng.
Theo lộ trình, thị trường điện lực Việt Nam sẽ vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Hiện nay, thị trường điện đã chuyển sang giai đoạn bán buôn cạnh tranh và đang chuẩn bị bước vào giai đoạn bán lẻ cạnh tranh - mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp tham gia sâu vào khâu phân phối, mua bán điện và cạnh tranh sòng phẳng như nhiều quốc gia phát triển đang áp dụng.
Dù cơ hội lớn, nhưng vẫn còn nhiều rào cản khiến doanh nghiệp gặp khó khi tham gia chuỗi cung ứng năng lượng – đặc biệt là các vấn đề về cơ chế, chính sách. Dù chủ trương đã rõ, nhưng các biện pháp triển khai cụ thể còn thiếu hoặc chưa đồng bộ. Doanh nghiệp vẫn gặp khó trong tiếp cận vốn, đất đai, cơ chế hỗ trợ đầu tư...
Ngoài ra, do phụ thuộc vào thời tiết, năng lượng tái tạo tiềm ẩn nhiều rủi ro, dễ gây tâm lý e ngại cho nhà đầu tư. Chuỗi năng lượng còn đòi hỏi chuyên môn kỹ thuật cao, khiến doanh nghiệp khó khăn trong tuyển dụng nhân lực phù hợp.
Tuy nhiên, với định hướng rõ ràng và sự đồng hành của nhà nước, TS. Lâm tin tưởng rằng doanh nghiệp Việt Nam sẽ nắm bắt tốt cơ hội này, từng bước khẳng định vai trò trong hệ sinh thái năng lượng quốc gia, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng và thúc đẩy phát triển bền vững.

PGS.TS Ngô Trí Long.
PGS.TS. Ngô Trí Long - nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu thị trường giá cả - Bộ Tài chính cho rằng, để doanh nghiệp năng lượng có thể thực sự phát huy vai trò, cần có một hệ thống chính sách tài chính đồng bộ, hiệu quả nhằm hỗ trợ tiếp cận vốn, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh và thích ứng với những biến động của thị trường năng lượng toàn cầu.
Vai trò của doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng năng lượng (cả truyền thống và tái tạo): Doanh nghiệp là trung tâm của chuỗi cung ứng năng lượng
Trong cấu trúc của chuỗi giá trị năng lượng – từ khai thác, sản xuất, truyền tải, phân phối đến tiêu thụ – doanh nghiệp đóng vai trò then chốt ở tất cả các mắt xích. Trong đó: Ở mảng năng lượng truyền thống (nhiệt điện, thủy điện): các tập đoàn như EVN, PVN, TKV cùng hàng loạt doanh nghiệp tư nhân đang nắm giữ phần lớn công suất phát điện và truyền tải. Trong năng lượng tái tạo (điện mặt trời, điện gió): các doanh nghiệp tư nhân (TTC, Trung Nam, BCG, AMI AC Renewables…) đang chiếm gần 80% tổng công suất điện mặt trời được đưa vào vận hành theo số liệu từ Bộ Công Thương năm 2024. Việc doanh nghiệp trở thành trung tâm trong chuỗi cung ứng không chỉ giúp đảm bảo an ninh năng lượng, mà còn thúc đẩy hiệu quả vận hành, sáng tạo mô hình kinh doanh mới (như mô hình điện áp mái bán điện lên lưới, lưu trữ phân tán...).
Nhu cầu hỗ trợ tài chính là tất yếu để nâng cao năng lực cạnh tranh: Đầu tư vào năng lượng – đặc biệt là năng lượng tái tạo – đòi hỏi nguồn vốn lớn, thời gian thu hồi dài và chịu rủi ro biến động chính sách. Do đó, hỗ trợ tài chính từ Nhà nước và các định chế tài chính là rất cần thiết. Cụ thể theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Báo cáo 2024), nhu cầu vốn đầu tư cho chuyển dịch năng lượng tại Việt Nam giai đoạn 2021–2030 ước tính lên đến 134,7 tỷ USD, trong đó 70% đến từ khu vực tư nhân. Tuy nhiên, chỉ khoảng 15–20% doanh nghiệp trong ngành năng lượng tiếp cận được tín dụng ưu đãi, do thiếu cơ chế bảo lãnh, rủi ro doanh thu từ chính sách giá điện (theo VCCI, 2024). Do đó, cần có hệ sinh thái tài chính xanh gồm tín dụng ưu đãi, bảo lãnh vay vốn, hỗ trợ bảo hiểm rủi ro, hoặc phát hành trái phiếu xanh để tạo dòng vốn bền vững cho khu vực doanh nghiệp.
Đổi mới công nghệ – chìa khóa để thích ứng và phát triển: Trong bối cảnh Việt Nam cam kết phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050 theo COP26, doanh nghiệp phải đầu tư đổi mới công nghệ để nâng cao hiệu suất năng lượng (giảm tiêu hao nhiên liệu, giảm phát thải). Áp dụng công nghệ lưu trữ điện, số hóa hệ thống vận hành (SCADA, AI quản lý phụ tải…). Tham gia thị trường điện cạnh tranh và thị trường phát thải carbon trong tương lai. Theo khảo sát của Bộ Công Thương (2025).
Do vậy, Cần sớm hoàn thiện khung chính sách tài chính xanh, ưu đãi thuế – tín dụng, và quỹ hỗ trợ đổi mới công nghệ cho doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng năng lượng.
Bên cạnh đó, theo ông Long, doanh nghiệp năng lượng đang gặp những khó khăn, thách thức như khó khăn tiếp cận vốn vay dài hạn cho đầu tư các dự án điện gió, điện mặt trời, lưu trữ năng lượng. Chi phí tài chính cao, thiếu cơ chế ưu đãi tín dụng hoặc bảo lãnh tín dụng từ nhà nước
Hạn chế trong tiếp cận tài chính xanh do thiếu khung pháp lý cụ thể của doanh nghiệp năng lượng tại Việt Nam. Thiếu công cụ phòng ngừa rủi ro tài chính trong thị trường điện cạnh tranh. Bất cập về thuế – phí và chính sách khấu hao đối với đầu tư công nghệ tiết kiệm năng lượng tại Việt Nam.

Theo ông Long kinh nghiệm quốc tế tiêu biểu tại các nước như: Đức- Vận hành Quỹ Khí hậu & Chuyển đổi (KTF) với quy mô hơn 200 tỷ euro hỗ trợ vay ưu đãi cho doanh nghiệp năng lượng tái tạo.
Hàn Quốc- Thiết lập các ngân hàng phát triển xanh cung cấp tài chính dài hạn. Trung Quốc – “Green Credit Guidelines” (Hướng dẫn Tín dụng Xanh). Singapore – Chương trình trợ cấp chuyển đổi năng lượng cho SMEs.
Bài học chính rút ra khi thực hiện cơ chế tín dụng xanh giúp định hướng tài chính toàn hệ thống, tạo áp lực thị trường, tuy nhiên cần đảm bảo duy trì giám sát để không bị “giảm hiệu lực” sau khủng hoảng – như Trung Quốc sau 2021.
Trợ cấp trực tiếp thiết bị xanh như Singapore dễ kích thích áp dụng công nghệ ngay lập tức, hiệu quả lớn nhưng cần có hỗ trợ đi kèm như đào tạo, đo lường kết quả ESG.
Phối hợp chính sách: kết hợp tín dụng xanh + trợ cấp + thị trường carbon (green certificates) giúp hình thành chuỗi hỗ trợ tài chính – kỹ thuật – thị trường bền vững.
Đồng thời liến nghị tham chiếu mô hình Trung Quốc: Xây dựng bộ chỉ tiêu ESG gắn với tín dụng ngân hàng, theo dõi bằng nghiên cứu panel và DID để đánh giá tác động định lượng. Xây dựng ETF hoặc quỹ xanh hỗ trợ SMEs trong nước như Singapore (EEG), kết hợp tài trợ từ chính phủ và tổ chức tài chính – ngân hàng. Phát triển cơ chế chứng chỉ xanh cho năng lượng, giao dịch carbon để thúc đẩy thị trường carbon nội địa.
PGS.TS. Ngô Trí Long đề xuất chính sách tài chính hỗ trợ doanh nghiệp năng lượng Việt nam những vấn đề như: Thiết lập Quỹ chuyển dịch năng lượng quốc gia: Cung cấp tín dụng ưu đãi, bảo lãnh rủi ro và hỗ trợ kỹ thuật cho doanh nghiệp đầu tư vào năng lượng sạch.
Xây dựng cơ chế tín dụng xanh rõ ràng cho các ngân hàng thương mại, có hướng dẫn chi tiết từ Ngân hàng Nhà nước.
Áp dụng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn giảm thuế nhập khẩu thiết bị tiết kiệm năng lượng và miễn giảm tiền thuê đất cho các dự án năng lượng tái tạo.
Ban hành chính sách khấu hao nhanh đối với tài sản đầu tư vào công nghệ năng lượng tái tạo và lưu trữ điện.
Tăng cường hợp tác công – tư (PPP) trong các dự án năng lượng; minh bạch hóa các gói hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước.
Cuối cùng, PGS.TS Long nhất mạnh, trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện đồng thời nhiều cam kết quốc tế về biến đổi khí hậu, đặc biệt là mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 theo Tuyên bố tại COP26, chính sách tài chính cần được nhìn nhận như một công cụ chiến lược và động lực trọng yếu thúc đẩy quá trình chuyển dịch năng lượng.
Để đạt được điều đó, cần có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ và nhất quán giữa ba trụ cột then chốt: Chính phủ - Hệ thống tài - Doanh nghiệp.
Từ góc độ chính sách, một trong những yêu cầu cấp thiết hiện nay là phải khẩn trương xây dựng và triển khai Chiến lược tài chính xanh quốc gia theo hướng toàn diện và khả thi, nhằm tạo khuôn khổ pháp lý rõ ràng cho các hoạt động đầu tư xanh. Chiến lược này cần đảm bảo các nguyên tắc:
Đồng bộ giữa chính sách tài khóa và tiền tệ, đặc biệt là phối hợp trong phát hành trái phiếu xanh, ưu đãi thuế và tín dụng xanh; Thực chất trong hỗ trợ khu vực doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thông qua các công cụ như bảo lãnh tín dụng, trợ cấp lãi suất, hay mô hình hợp tác công – tư (PPP) hiệu quả; Hướng đến kết quả đo lường được, bằng việc xây dựng bộ chỉ số tài chính xanh, cơ chế theo dõi – đánh giá minh bạch và tiêu chuẩn hóa các sản phẩm tài chính thân thiện môi trường.
Ngoài ra, cần tiếp tục nghiên cứu và áp dụng các bài học thành công từ quốc tế như: Quỹ Khí hậu & Chuyển đổi của Đức, ngân hàng phát triển xanh của Hàn Quốc, hay cơ chế tín dụng xanh trong khu vực ASEAN... nhằm tăng cường tính cạnh tranh và khả năng tiếp cận vốn của các doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi giá trị năng lượng toàn cầu.

TS. Nguyễn Đạt Minh - Trưởng khoa Quản lý công nghiệp và năng lượng, Trường Đại học Điện lực.
TS. Nguyễn Đạt Minh - Trưởng khoa Quản lý công nghiệp và năng lượng, Trường Đại học Điện lực
Về chiến lược đào tạo nhân lực cho ngành năng lượng trong thời đại số, TS. Nguyễn Đạt Minh cho biết, nhu cầu đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực trong lĩnh vực năng lượng là rất quan trọng.
Trong luật sử dụng năng lượng hiệu quả Quốc hội vừa bấm nút cách đây vài hôm nhắc đến rất nhiều về vai trò của đạo tạo nhân lực và nhắc đến rất nhiều về chuyển dịch nhân lực năng lượng. Ngoài việc chúng ta đào tạo kỹ sư, cư nhân, thậm chí là những công nhân kỹ thuật mới thì chúng ta còn đào tạo lại, chuyển đổi nghề nghiệp cho những lao động bị tác động bởi quá trình chuyển dịch năng lượng. Trong thời gian tới, sẽ giảm dần những lao động trong mảng năng lượng không tái tạo, nhừng lao động đang làm việc cho những nhà máy điện nhiệt điện than sẽ chuyển dần sang mảng năng lượng tái tạo. Để đáp ứng nhu cầu tốc độ tăng trưởng cho quy hoạch điện VIII thì nhu cầu về nhân lực cho phát triển điện mặt trời, điện gió, thậm chí là cả điện hạt nhân.
Thực trạng tại Việt Nam, chúng ta đang thiếu hụt nhân lực chất lượng cao, chương trình đào tạo chưa tích hợp số, liên kết doanh nghiệp – nhà trường còn yếu. Cập nhật chương trình đào tạo. Vì vậy chiến lược đặt ra là cần đào tạo lại (reskilling) và nâng cao kỹ năng (upskilling), Tăng cường hợp tác quốc tế, khuyến khích doanh nghiệp tham gia đào tạo.
Trước xu hướng công nghệ Trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), Internet vạn vật (IoT), công nghệ blockchain, tự động hóa, lưới điện thông minh… thì xu hướng và yêu cầu kỹ năng mới, lập trình, phân tíc dữ liệu, vận hành hệ thống thông minh, tối ưu hệ thống điều khiển, hiểu thị trường điện, quy hoạch.
Ông Minh cho rằng, cần đổi mới chương trình và phương pháp với việc tích hợp công nghệ vào đào tạo: E-learning, VR/AR, AI trong đào tạo, Big data trong giáo trình; Kết hợp đào tạo lý thuyết và thực hành; Hợp tác với doanh nghiệp: Tổ chức thực tập, Đề tài gắn với DN, Đào tạo tại chỗ,... Về phát triển đội ngũ giảng viên, cần đào tạo kỹ năng số, cập nhật công nghệ, kết nối chuyên gia trong và ngoài nước, tham gia đề tài, hội thảo quốc tế, đào tạo là yếu tố quyết định thành công chuyển đổi số năng lượng và cần chiến lược dài hạn, phối hợp đa bên, tận dụng hợp tác quốc tế…
“Đào tạo là yếu tố quyết định thành công chuyển đổi số năng lượng, chúng ta cần có chiến lược dài hạn, phối hợp đa bên, tận dụng hợp tác quốc tế” - TS. Nguyễn Đạt Minh nhấn mạnh.

Ông Phạm Anh Cường - Nhà sáng lập kiêm Giám đốc điều hành Hệ sinh thái Khởi nghiệp BestB.
Ông Phạm Anh Cường - Nhà sáng lập kiêm Giám đốc điều hành Hệ sinh thái Khởi nghiệp BestB chia sẻ, năng lượng là ngành nền tảng cho tăng trưởng kinh tế và mục tiêu phát thải ròng bằng 0 (Net Zero). Startup và đổi mới sáng tạo đang trở thành động lực quan trọng trong ngành này trên toàn cầu
Phát triển bền vững không còn là xu hướng, mà là sự cần thiết. Trên thế giới có các trung tâm đổi mới sang tạo quốc tế nổi bật như: Châu Âu có Horizon Europe, Innovation Fund; Hoa Kỳ có ARPA-E, Breakthrough Energy Ventures…
Trong quá trình chuyển đổi năng lượng, nhiều quốc gia đã chứng minh rằng đổi mới sáng tạo không chỉ đến từ công nghệ mà còn từ mô hình hợp tác, cơ chế chính sách và hệ sinh thái đầu tư phù hợp. Từ thực tiễn quốc tế, có thể rút ra một số bài học quan trọng giúp Việt Nam xây dựng nền tảng vững chắc cho hệ sinh thái khởi nghiệp năng lượng.
Vì vậy cần giải quyết các vấn đề như: Mô hình hợp tác công-tư hiệu quả; Tập trung giải quyết vấn đề cụ thể; Hệ sinh thái đầu tư năng lượng.
Theo ông Cường, Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp trong lĩnh vực năng lượng, đặc biệt là năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, bên cạnh tiềm năng tài nguyên và nhân lực, hệ sinh thái khởi nghiệp năng lượng vẫn còn tồn tại nhiều điểm nghẽn cần tháo gỡ để có thể bứt phá như: Hệ sinh thái khởi nghiệp còn non trẻ và phân mảnh; Lợi thế tài nguyên và xu hướng chuyển đổi xanh; Lực lượng nhân lực trẻ và tiềm năng hội nhập quốc tế.

Từ thực tiễn quốc tế và bối cảnh nội tại, có thể thấy rằng việc phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp năng lượng tại Việt Nam cần những giải pháp đồng bộ – từ chính sách hỗ trợ, hạ tầng thử nghiệm đến sự tham gia chủ động của nhà đầu tư mạo hiểm và cộng đồng khoa học.
Về chính sách và hệ sinh thái: Tạo sandbox năng lượng cho startup thử nghiệm, kết nối chính sách – quỹ đầu tư – doanh nghiệp lớn – viện nghiên cứu. Các quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo sẵn sàng đồng hành cùng startup trong mảng năng lượng: Vốn đầu tư sớm; Tư vấn mô hình kinh doanh; Hỗ trợ gọi vốn vòng sau và tiếp cận thị trường quốc tế. Đề xuất mô hình “Energy Innovation Partnership”: Gồm các trụ cột như nhà nước, nhà đầu tư, nhà khoa học, nhà startup. Tập trung theo ngành dọc: Năng lượng mặt trời, Lưu trữ điện, Carbon offset...
Ông Cường khẳng định, khởi nghiệp trong ngành năng lượng không chỉ là cơ hội đầu tư mà còn là giải pháp căn cơ cho phát triển bền vững.

Ông Trần Văn Giang, Trưởng ban Điện lực - Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam.
Ông Trần Văn Giang, Trưởng ban Điện lực - Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam chia sẻ: Thực tế cho thấy, ngành năng lượng Việt Nam đang đối mặt với nhiều khó khăn thách thức như: Nhu cầu tiêu thụ năng lượng ngày càng tăng, đặc biệt trong công nghiệp và giao thông…trong bối cảnh nguồn năng lượng sơ cấp ngày càng cạn kiệt, giá cả biến động khó lường. Cơ cấu nguồn điện vẫn phụ thuộc chủ yếu vào nhiệt điện than, khí, thủy điện và hiện đang mở rộng đầu tư phát triển năng lượng tái tạo như điện mặt trời, điện gió…
Tỷ trọng năng lượng sơ cấp từ nhiên liệu hóa thạch lớn, mức độ phát thải khí nhà kính tăng cao từ các nhà máy nhiệt điện. Hạ tầng truyền tải chưa theo kịp tốc độ phát triển nguồn điện. Cơ cấu nguồn điện mất cân đối, sự phát triển nóng của điện mặt trời gây áp lực lớn cho lưới truyền tải. Khung pháp lý còn chưa hoàn thiện cho các mô hình như điện NLTT, lưu trữ năng lượng, điện hydrogen/amoniac, năng lượng mới, năng lượng sạch, điện sinh khối, chuyển đổi nhiên liệu…
Ông Giang kiến nghị với các cấp có thẩm quyền một số nội dung như: Xây dựng hoàn thiện các Luật, cơ chế, chính sách phù hợp để phát triển năng lượng bền vững, cụ thể về phát triển điện NLTT, điện hạt nhân, năng lượng mới, thị trường điện cạnh tranh, khung giá phát điện, giá mua bán điện, hợp đồng mua bán trực tiếp, cơ chế đấu thầu, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư tham gia trên thị trường.
Xây dựng chương trình tổng thể quốc gia về Chuyển dịch năng lượng trong các lĩnh vực, ngành nghề, trong đó có Chuyển đổi nhiên liệu cho các nhà máy nhiệt điện trong cả nước; quy hoạch nguồn nhiên liệu thay thế; các cơ chế, chính sách pháp luật đồng bộ, các quy chuẩn, tiêu chuẩn liên quan, lộ trình cụ thể thực hiện việc chuyển đổi nhiên liệu đảm bảo công bằng, hiệu quả cho tất cả đối tượng tham gia…
Rà soát điều chỉnh/xây dựng mới Luật và các Văn bản hướng dẫn đảm bảo tính đồng bộ thống nhất để tạo thuận lợi triển khai thăm dò, đầu tư phát triển các dự án mỏ than…theo Quy hoạch.
Rà soát tính toán lại nhu cầu sử dụng than trong nước phù hợp với sự phát triển năng lượng tái tạo, chuyển đổi nhiên liệu các nhà máy điện than, phát triển điện hạt nhân và định hướng đến năm 2050 Việt Nam không nhập khẩu than nhằm mục tiêu giảm phát thải ròng bằng “0” theo cam kế của Chính phủ với quốc tế.
Cơ chế, chính sách hỗ trợ về an sinh xã hội, về chuyển đổi nghề nghiệp làm căn cứ để triển khai trong thời gian tới và để TKV có kế hoạch chuẩn bị đầu tư mỏ mới phù hợp trong những giai đoạn tiếp theo góp phần phát triển năng lượng Việt Nam bền vững và đảm bảo an ninh năng lượng.
Phối hợp liên ngành giữa các Bộ trong điều hành chính sách chuyển dịch năng lượng. Hỗ trợ chính quyền địa phương quy hoạch, quản lý vùng phát triển NLTT phù hợp với hạ tầng, dân cư, môi trường. Tăng cường hợp tác quốc tế song phương và đa phương trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ.
Tọa đàm

Các diễn giả tham gia phiên Tọa đàm.
Trả lời đại biểu tại diễn đàn về các quy định pháp luật liên quan đến ngành năng lượng tái tạo, TS Ngô Đức Lâm cho biết, ngành này đã có dự thảo luật riêng và hiện chỉ chờ được ban hành. Ông nhấn mạnh, đối với lĩnh vực năng lượng tái tạo, vốn đầu tư là yếu tố then chốt. Thời gian qua, Nhà nước đã giao Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) quản lý năng lượng tái tạo theo đúng quy định pháp luật, do đó các nhà đầu tư phải tuân thủ theo khung pháp lý hiện hành.
Đặc biệt, đối với nhà đầu tư nước ngoài, cần có những quy định rõ ràng nhằm bảo đảm an toàn vốn và khả năng thu hồi vốn để họ yên tâm đầu tư. Các nhà đầu tư quốc tế đang rất mong chờ một khung pháp lý ổn định cho ngành này. Bên cạnh đó, cũng cần quy định cụ thể về hợp đồng bao tiêu sản lượng điện năng lượng tái tạo, nhằm tạo thế cân bằng trong quan hệ giữa EVN và nhà đầu tư, đồng thời khuyến khích doanh nghiệp nước ngoài tích cực tham gia phát triển lĩnh vực này.
Ông Trần Văn Giang, Trưởng ban Điện lực – Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV), chia sẻ về lộ trình giảm sử dụng than và chuyển đổi sang năng lượng tái tạo. Theo ông, hiện công nghệ sản xuất tại TKV có hai chức năng chính: khai thác, chuẩn bị năng lượng sơ cấp và sản xuất điện để bán lại cho EVN.
Về việc chuyển đổi nguyên liệu, ông Giang cho biết theo quy định của Chính phủ, đến năm 2050, các doanh nghiệp sẽ không được sử dụng than để phát điện. Đây là một thách thức rất lớn đối với TKV. Để chuẩn bị cho lộ trình này, TKV đã làm việc với các đối tác nước ngoài nhằm tìm giải pháp chuyển đổi. Trước mắt, tập đoàn đang thực hiện đốt kèm gỗ với tỷ lệ ban đầu 5%, sau đó từng bước tăng lên, kết hợp với các loại nguyên liệu khác để giảm dần sự phụ thuộc vào than. Đồng thời, TKV cũng đang nghiên cứu công nghệ đốt than kèm amoniac và hydro. Ngoài ra, doanh nghiệp đang tiếp xúc với các đối tác Nhật Bản để tìm hiểu khả năng phối hợp sử dụng các chất đốt thay thế.
Song song với đó, TKV cũng từng bước tham gia vào quá trình chuyển đổi năng lượng. Tại khu vực Tây Nguyên, tập đoàn đã và đang thử nghiệm sử dụng pin năng lượng mặt trời nhằm ưu tiên dùng điện sạch, tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo và nâng cao giá trị sản phẩm nhôm. TKV cũng triển khai lắp đặt pin mặt trời nổi trên lòng hồ, sử dụng điện sạch cho nhu cầu nội bộ, hướng tới tham gia chuỗi cung ứng năng lượng toàn cầu.
Liên quan đến câu hỏi về công tác dự báo trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, ông Trần Viết Nguyên - Phó trưởng Ban Kinh doanh và Mua bán điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) – cho biết: Do đặc thù phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết, công tác dự báo trong lĩnh vực năng lượng tái tạo có vai trò đặc biệt quan trọng.
Hiện EVN đang sử dụng hệ thống dự báo của A0 (Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Quốc gia - NSMO) kết hợp với các công cụ nội bộ. Các công cụ này khai thác dữ liệu lịch sử và dữ liệu thời tiết chi tiết tại từng vùng miền để đưa ra dự báo sản lượng điện tái tạo. Ngoài ra, EVN còn trang bị thêm thiết bị từ nước ngoài để đối chiếu, kiểm tra độ chính xác của các dự báo.
Song song đó, EVN cũng so sánh dữ liệu dự báo với thực tế tiêu thụ năng lượng của các khách hàng để tính toán tỷ lệ chênh lệch, từ đó kiểm chứng và hiệu chỉnh các mô hình dự báo, nâng cao độ tin cậy trong vận hành hệ thống điện quốc gia.

Bà Nguyễn Thị Dung, Giám đốc Công ty TNHH Tư vấn và Đại lý Thuế D&P Việt Nam.
Liên quan đến chính sách thuế nhằm thúc đẩy phát triển ngành năng lượng tại Việt Nam, bà Nguyễn Thị Dung, Giám đốc Công ty TNHH Tư vấn và Đại lý Thuế D&P Việt Nam nhấn mạnh rằng doanh nghiệp chính là lực lượng nòng cốt trong quá trình chuyển dịch năng lượng. Theo bà, thuế và các ưu đãi tài chính đóng vai trò như đòn bẩy quan trọng để hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển của ngành này.
Về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), hiện đang áp dụng mức thuế suất ưu đãi 10% trong vòng 15 năm, miễn thuế 4 năm đầu và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo. Chính sách này áp dụng cho các dự án điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối và các doanh nghiệp sản xuất thiết bị tiết kiệm năng lượng. Ngoài ra, máy móc, thiết bị nhập khẩu chưa thể sản xuất trong nước, nếu sử dụng cho các dự án năng lượng tái tạo như điện mặt trời, điện gió hay lưu trữ năng lượng, cũng được miễn thuế nhập khẩu.
Bên cạnh đó, thuế giá trị gia tăng (GTGT) 5% được áp dụng cho thiết bị năng lượng sạch và hệ thống điện mặt trời áp mái. Một số dự án khai thác tài nguyên phục vụ cho năng lượng tái tạo có thể được xem xét miễn hoặc giảm thuế tài nguyên. Đồng thời, chính sách tín dụng xanh và hỗ trợ vốn cũng đang được triển khai, gián tiếp kết hợp với các ưu đãi thuế để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp.
Ngoài các chính sách ưu đãi, bà Dung cho rằng cần chú trọng đến công tác tư vấn và lập kế hoạch thuế hiệu quả cho các dự án năng lượng. Điều này bao gồm việc rà soát điều kiện hưởng ưu đãi, hoàn thiện hồ sơ pháp lý, áp dụng chính sách phù hợp, kết nối doanh nghiệp với cơ quan chức năng và xử lý các vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện. Việc đồng hành cùng doanh nghiệp trong chuyển đổi xanh không chỉ giúp tối ưu chi phí mà còn đảm bảo phát triển bền vững.
“Thuế không chỉ là nghĩa vụ, mà còn là công cụ phát triển chiến lược,” bà Dung khẳng định. Theo tầm nhìn đến năm 2050, các doanh nghiệp trong lĩnh vực năng lượng cần tận dụng tối đa các ưu đãi hiện hành, định vị vai trò bền vững trong chuỗi cung ứng toàn cầu và góp phần vào mục tiêu phát triển năng lượng quốc gia.
email: [email protected], hotline: 086 508 6899