Đo lường các yêu tố du lịch bền vững tại Việt Nam
TCDN - Kết quả nghiên cứu cho thấy, vấn đề về kinh tế, văn hóa – xã hội trong du lịch tại Việt Nam đã phát triển tương đối ổn định, nhưng Môi trường Cộng đồng và phát triển du lịch thì lại đang ở dạng tiềm năng.
Tóm tắt
Nghiên cứu này được đưa ra nhằm xây dựng một thang đo lường chủ quan dựa trên tổng hợp có chọn lọc và phát triển các tiêu chí phù hợp với tình huống nghiên cứu, quá trình đánh giá được thực hiện từ phương diện người dân địa phương, đem đến góc nhìn mới về vấn đề phát triển du lịch bền vững. Thang đo này có thể được tiếp tục sử dụng trong tương lai để xem xét sự thay đổi trong tính bền vững của các tiêu chí. Kết quả nghiên cứu cho thấy, vấn đề về kinh tế, văn hóa – xã hội trong du lịch tại Việt Nam đã phát triển tương đối ổn định, nhưng Môi trường Cộng đồng và phát triển du lịch thì lại đang ở dạng tiềm năng. Dựa vào đó, chúng tôi đưa ra một số hàm ý chính sách đối với 2 khía cạnh còn chưa đạt được yêu cầu về mặt bền vững trên.
1. Giới thiệu
Ngành du lịch ở Việt Nam đóng vai trò vô cùng quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội. Theo công bố vào tháng 3/2016 của hội đồng Du lịch và Lữ hành thế giới (WTTC), du lịch ở Việt Nam đóng góp 6,6% vào GDP, xếp thứ 40/184 nước về quy mô đóng góp trực tiếp vào GDP và xếp thứ 55/184 nước về quy mô tổng đóng góp vào GDP quốc gia. Cụ thể du lịch đóng góp cả trực tiếp, gián tiếp và đầu tư công là 584.884 tỷ đồng (tương đương 13,9% GDP), trong đó đóng góp trực tiếp của du lịch vào GDP là 279.287 tỷ đồng (tương đương 6,6% GDP). Du lịch tạo ra hơn 6,3 triệu việc làm cả trực tiếp và gián tiếp (chiếm 11,2 %), số việc làm trực tiếp được tạo ra là 2,783 triệu (chiếm 5,2% tổng số việc làm). Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 đã đề ra mục tiêu: “Phấn đấu đến năm 2030, Việt Nam trở thành quốc gia có ngành du lịch phát triển”.
Tuy nhiên ngoài những đóng góp tích cực nêu trên thì cũng tồn tại không ít những tiêu cực mà du lịch mang lại. Đó là vấn đề ô nhiễm môi trường, an ninh trật tự, hư hại các di sản… đã được đề cập trong rất nhiều các chương trình nghị sự của các quốc gia trên thế giới. Chính vì lẽ đó đòi hỏi chúng ta phải phát triển những mô hình du lịch không chỉ vận hành hiệu quả mà còn có thể khắc phục được những hạn chế trên và hướng đến một mục tiêu bền vững. Du lịch dựa vào cộng đồng hay du lịch cộng đồng (DLCĐ) là mô hình phát triển du lịch một cách toàn diện, một trong những loại hình phát triển du lịch bền vững, với sự tham gia trực tiếp của người dân địa phương vào các hoạt động du lịch. Vì có những lợi ích mà du lịch mang lại nên người dân cũng có ý thức tự giác trong xây dựng và bảo vệ địa điểm du lịch của địa phương mình. Đặc biệt điều kiện của nước ta với hơn 70% địa hình là đồi núi, là nơi tập trung nhiều tài nguyên du lịch (hang động, phong cảnh, rừng, suối…), nơi sinh sống của nhiều dân tộc thiểu số, còn giữ được bản sắc văn hóa. Những điều kiện trên vô cùng thuận lợi để phát triển du lịch sinh thái cộng đồng và du lịch văn hóa cộng đồng – nhưng phải dựa trên điều kiện phát triển du lịch bền vững.
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá các cấu phần của du lịch bền vững tại Việt Nam. Để đạt được mục tiêu trên, ngoài phần giới thiệu, phần 2 sẽ đề cập đến tổng quan các nghiên cứu trước và giả thuyết nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu và kết quả nghiên cứu sẽ được giới thiệu ở phần 3. Phần 4 sẽ đưa ra một số hàm ý chính sách để phát triển du lịch bền vững tại Việt Nam – trên góc độ
2. Tổng quan nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
2.1. Quan điểm về du lịch bền vững
Theo Luật Du lịch Việt Nam (2006): “Du lịch bền vững là sự phát triển du lịch đáp ứng được các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch của tương lai”.
Theo Hội đồng Du lịch và Lữ hành quốc tế (1996): “Du lịch bền vững là việc đáp ứng các nhu cầu hiện tại của du khách và vùng du lịch mà vẫn bảo đảm những khả năng đáp ứng nhu cầu cho các thế hệ du lịch tương lai”.
Theo Ủy ban Môi trường và Phát triển Quốc tế (1987): “Du lịch bền vững là một quá trình nhằm đáp ứng những nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng của những thế hệ mai sau”.
Từ những khái niệm nêu trên, ta có thể hiểu: “Du lịch bền vững là sự phát triển du lịch có sự quan tâm đến việc bảo tồn các giá trị của tài nguyên du lịch đồng thời giảm thiểu đến mức thấp nhất những tác hại xấu đến môi trường, kinh tế, văn hóa- xã hội nhằm phục vụ nhu cầu hiện tại của du khách và điểm du lịch mà không làm phương hại đến nhu cầu của tương lai”.
Du lịch bền vững là phát triển các hoạt động du lịch nhằm đáp ứng những nhu cầu hiện tại của khách du lịch và người dân bản địa trong khi vẫn quan tâm đến việc bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên cho việc phát triển các hoạt động du lịch trong tương lai…(Nguyễn Đình Hòe và Vũ Văn Hiếu, Du lịch bền vững, 2001). Du lịch bền vững hướng đến việc quản lý các nguồn tài nguyên sao cho các nhu cầu kinh tế xã hội đều được thỏa mãn trong khi vẫn duy trì được bản sắc văn hóa, các đặc điểm sinh thái, sự đa dạng sinh học và hệ thống hỗ trợ đời sống.
Như vậy, du lịch bền vững là phát triển du lịch trong điều kiện bảo tồn và cải thiện các mặt môi trường, kinh tế, văn hóa và xã hội. Vì vậy, du lịch bền vững cần:
- Sử dụng tài nguyên môi trường một cách tối ưu để những tài nguyên này hình thành một yếu tố quan trọng trong phát triển du lịch, duy trì những quá trình sinh thái thiết yếu và hỗ trợ cho việc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học.
- Tôn trọng bản sắc văn hóa- xã hội của các cộng đồng ở cấc điểm đến, bảo tồn di sản văn hóa và những giá trị truyền thống trong cuộc sống của họ và tham gia vào quá trình hiểu biết và chấp thuận các nền văn hóa khác.
- Bảo đảm những hoạt động kinh tế sống động lâu dài, đem lại lợi ích kinh tế, xã hội cho tất cả mọi thành viên bao gồm những công nhân viên chức có thu nhập cao hay những người có thu nhập và góp phần vào việc xóa đói giảm nghèo..
2.2. Cấu phần của du lịch bền vững
2.2.1. Kinh tế
Bền vững kinh tế bao gồm 2 chủ đề về tăng trưởng và cơ cấu kinh tế, xu hướng sản xuất và tiêu thụ với 14 chỉ tiêu cụ thể. Tuy nhiên, đối với vấn đề phát triển du lịch bền vững thì các cấu phần liên quan đến thu nhập bình quân đầu người không được thảo luận (Priskin (2000), Miller (2001), WTO (1997) và McCool (2001)). Như vậy, ý tưởng về vấn đề này chỉ cần tập trung vào 2 khía cạnh là Ổn định thu nhập và Phân phối thu nhập.
2.2.2. Môi trường
Bền vững về môi trường: bao gồm 7 chủ đề về không khí, đất, đại dương biển và bờ biển, nước sạch và đa dạng sinh học với 19 tiêu chí. Tương tự như kinh tế, vấn đề về môi trường trong du lịch cần được tính riêng biệt, vì một số chỉ tiêu như CO2 lại không cần thiết. Do vậy, các nghiên cứu sau này tập trung vào 2 ý tưởng là Bảo vệ tài nguyên tự nhiên và môi trường, Ý thức bảo vệ môi trường (Castellani và Sala, 2010; Blancas và cộng sự, 2010; Lin và Lu, 2012).
2.2.3. Văn hóa - Xã hội
Bền vững về mặt xã hội: bao gồm 6 chủ đề về công bằng, y tế, giáo dục, nhà ở, an ninh và dân số với 19 chỉ tiêu. Một số chỉ tiêu trong góc độ này không phù hợp như tội phạm (Wang và cộng sự, 2013; Uzun và cộng sự, 2015). Ngoài ra, vấn đề về văn hóa cũng cần phải chú ý trong 2 góc độ: (1) xâm lược về văn hóa và (2) bảo tồn văn hóa. 2 khía cạnh này thường được đi kèm với nhau. Vì thế, bền vững về văn hóa xã hội được thể hiện trên các khía cạnh Mức độ bảo tồn đặc trưng văn hóa địa phương, Tác động bên ngoài đến văn hóa, Ý thức lưu giữ văn hóa dân tộc; Đóng góp kinh tế cho bảo tồn tài nguyên nhân văn; Cơ hội giáo dục; Đời sống dân cư; An ninh trật tự
2.2.4. Thể chế
Thể chế phát triển bền vững gồm 2 chủ đề khung thể chế và năng lực thể chế, được cụ thể hóa thành 6 chỉ tiêu. Các chỉ tiêu liên quan như thiệt hại về người và của do thiên nhiên, đường dây điện thoại không nên được đề cập trong nghiên cứ về vấn đề du lịch (Azizi và cộng sự, 2011, Rio và cộng sự, 2012). Do đó, thể chế được tiến hành đo lường trên 2 khía cạnh là Tương tác giữa người dân và khách du lịch; Hỗ trợ làm du lịch cho người dân địa phương; Sức tải du lịch.
3. Phương pháp nghiên cứu và kết quả nghiên cứu
3.1. Bảng hỏi và phương thức khảo sát
Một bảng hỏi đã được xây dựng để thu thập sự đánh giá của người dân địa phương về mức độ bền vững du lịch dựa trên bộ tiêu chí đánh giá. Các câu hỏi là các biến đo lường được biên tập lại dưới một số dạng khác nhau để người được hỏi dễ dàng trả lời và đạt được mục đích thu thập dữ liệu, giúp thông tin thu nhận được chính xác hơn tuy nhiên vẫn phục vụ cho một thang đo Likert 5 điểm với mức độ tích cực tăng dần từ 1 đến 5. Bảng hỏi được thiết kế với 45 câu hỏi/mệnh đề đánh giá, với 4 câu hỏi về thông tin cá nhân và 41 câu hỏi/mệnh đề phục vụ nội dung đánh giá phát triển du lịch bền vững. Sau khi hoàn thành bảng hỏi được khảo sát thử nghiệm đồng thời tham khảo chuyên gia để chỉnh sửa lần cuối trước khi thực hiện điều tra chính thức. Nghiên cứu này, chúng tôi chỉ phỏng vấn các hộ gia đình đã làm du lịch tại các địa phương, bỏ qua nhóm doanh nghiệp hoặc khu vực quản lý nhà nước.
Để có thể tạo được 1 bảng hỏi, chúng tôi sử dụng thuật toán AHP. Vấn đề được xác định ở đây là sự ưu tiên trong phát triển du lịch bền vững giữa các tiêu chí, việc sử dụng thuật toán AHP nhằm đánh trọng số cho các tiêu chí này dựa trên thu thập ý kiến chuyên gia. Cấu trúc thứ bậc các tiêu chí chính là cấu trúc của bộ tiêu chí đánh giá bao gồm ba bậc: Khía cạnh bền vững/Tiêu chí lớn (Criteria), Tiêu chí thành phần (Sub-Criteria) và các biến đo lường (Indicators). Một bảng hỏi được thiết kế riêng để thu thập sự đánh giá của các chuyên gia về mức độ quan trọng tương đối giữa mỗi 2 tiêu chí hay là sự so sánh các cặp tiêu chí cùng phản ảnh một tiêu chí ở bậc cao hơn.
3.2. Mô hình nghiên cứu
Trọng số của các tiêu chí không chỉ cho phép thực hiện tính toán điểm bền vững mà còn thể hiện mức độ ưu tiên (mức độ đóng góp) của chúng trong thực hiện chiến lược phát triển du lịch, căn cứ vào đó nhà quản lý có thể biết vấn đề gì cần được quan tâm nhiều hơn. Kết quả cho thấy đối với 4 tiêu chí lớn về phát triển du lịch bền vững trọng số của chúng không có sự chênh lệch nhiều xong vẫn thể hiện độ ưu tiên khá rõ ràng, Kinh tế được đánh giá là quan trọng nhất với trọng số 0,281; ít được ưu tiên nhất là Cộng đồng và phát triển du lịch với 0,219 trong khi hai tiêu chí Văn hóa – Xã hội và Môi trường có tầm quan trọng như nhau và bằng 0,25 (hình 1 và bảng 1).

Ở các cấp tiêu chí nhỏ hơn mức độ quan trọng cũng được thể hiện khá rõ ràng, các tiêu chí thành phần có trọng số cao nhất bao gồm: Phân phối thu nhập (Kinh tế) – 0,667; Đời sống dân cư (Văn hóa – Xã hội) – 0,172; Bảo vệ tài nguyên tự nhiên và môi trường, Ý thức bảo vệ môi trường (Môi trường) được đánh giá là quan trọng ngang nhau – 0,5; Hỗ trợ làm du lịch cho người dân địa phương (Cộng đồng và phát triển du lịch) – 0,362 (bảng 2).


Đối với cấp tiêu chí nhỏ nhất là các biến thang đo, ngoài hai trường hợp đặc biệt có trọng số bằng 1 là “Duy trì giao lưu văn hóa từ nguồn thu du lịch” và “Mức độ thường xuyên xảy ra trộm cắp” do chỉ được đo lường bằng 1 biến thì ở các nhóm tiêu chí khác mức độ quan trọng được thể hiện khá rõ ràng bởi sự chênh lệch trọng số đáng kể. Kết quả tỷ số nhất quán CR cho biết tất cả các giá trị đều < 10%, như vậy đánh giá của các chuyên gia là khá đồng nhất và độ tin cậy cao.
Tính bền vững của du lịch tại Việt nam
Kết quả tính toán cho thấy tất cả các mức đểm sự bền vững đều nằm trong khoảng 41-60 (Trung bình) và 61-80 (Bền vững tiềm năng), ngoài ra một số điểm đánh giá các tiêu chí thành phần và thang đo ở dưới mức trung bình (20-40 điểm.) Cụ thể điểm của các tiêu chí Kinh tế và Văn hóa – Xã hội lần lượt là 73,02 và 73,59 – đạt trạng thái bền vững tiềm năng. Tiêu chí Môi trường đạt điểm 58,25 và Cộng đồng và phát triển du lịch là 58,38; hai tiêu chí này có điểm số nằm ở mức trung bình, tức là chưa bền vững. Tuy nhiên nếu phân tích kỹ hơn ta có thể thấy điểm bền vững của hai tiêu chí Môi trường và Cộng đồng và phát triển du lịch gần đạt điểm tuyệt đối của mức trung bình và nằm sát mức bền vững tiềm năng (61 điểm). Trong khi đó Kinh tế và Văn hóa – Xã hội vượt qua mức bền vững tiềm năng cần thiết (70 điểm) và có thể kết luận có khả năng duy trì ổn định trạng thái bền vững này. Bảng 3 cho thấy sự so sánh trực quan giữa mức độ bền vững của các khía cạnh này, các điểm bền vững tiến càng sát về mốc 100 thì càng bền vững.

66,26 là điểm bền vững của cả mô hình du lịch tại bản Lác, từ đó có thể kết luận rằng mô hình du lịch này đạt trạng thái bền vững tiềm năng. Bền vững tiềm năng được hiểu là khả năng đạt được trạng thái bền vững trong tương lai và đang duy trì một cách ổn định các yếu tố tạo nên sự bền vững, tuy nhiên điểm du lịch tại Việt Nam vẫn chưa chạm đến mức bền vững tiềm năng cần thiết (70 điểm). Phần dưới sẽ phân tích kỹ hơn về các khía cạnh thiếu bền vững và một số vấn đề còn tồn tại của các khía cạnh được đánh giá là bền vững.
4. Một số hàm ý chính sách
Mô hình du lịch được phát triển dựa trên người dân địa phương là một mô hình thành công và có mức độ bền vững tiềm năng nhưng chưa đáp ứng tốt tất cả các yếu tố bền vững, 2 trên 4 khía cạnh bền vững được đánh giá chưa bền vững (Môi trường và Cộng đồng & Phát triển du lịch) trong khi đó 2 khía cạnh còn lại (Kinh tế và Văn hóa – Xã hội) đạt mức độ bền vững tiềm năng. Các phương án cải thiện tính bền vững của các khía cạnh trên phải được quan tâm cả trong ngắn hạn và lâu dài.
Mặc dù hai khía cạnh Kinh tế và Văn hóa – xã hội được đánh giá là có khả năng bền vững trong tương lai nhưng điều cấp thiết vẫn phải cải thiện các yếu tố chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển như chính sách thuế phí, hệ thống cấp tải điện và đóng góp kinh tế cho bảo tồn di sản nhân văn. Bên cạnh đó, các yếu tố văn hóa nguyên bản có nguy cơ mai một ngày càng nhiều là khiến cho các khía cạnh này có thể trở nên thiếu bền vững về lâu dài. Chúng tôi đưa ra một số hàm ý chính sách để khắc phục tình trạng trên.
Hàm ý về môi trường và xã hội: cộng đồng dân bản và chính quyền địa phương cần phải thống kê ngay số lượng số gia đình còn giữ lại được ao hồ gắn liền với kiến trúc nhà sàn hoặc nhà truyền thống của dân tộc bản địa. Nghiêm cấm các hành vi san lấp ao hồ để sử dụng cho các mục đích khác và bảo vệ cảnh quan truyền thống này khỏi nguy cơ biến mất. Bên cạnh đó, phải giữ vệ sinh sạch sẽ cho các không gian này để tránh gây mất vệ sinh, tách riêng khu vực nuôi nhốt gia súc gia cầm và đảm bảo được sử dụng cho mục tiêu du lịch. Đây là điểm hấp dẫn du khách đặc biệt từ những ngày đầu du lịch phát triển và cũng là một nét văn hóa đặc trưng của cộng đồng người dân địa phương. Các công trình bê tông phải được quy định thiết kế phù hợp với kiến trúc nhà sàn truyền thống, các quy định này có thể bao gồm: tỷ lệ chất liệu bê tông của công trình, kiểu dáng thiết kế, màu sắc,… nên được xây dựng khéo léo để không làm ảnh hưởng tới kiểu cách đặc trưng của nhà sàn. Ngoài ra chính quyền địa phương nên tạo ra một quy chuẩn trong xây dựng và thiết kế về các đặc điểm của kiến trúc nhà sàn người Thái cho các nhà sàn mới được xây dựng và hỗ trợ các hộ gia đình sửa sang giữ lại kiến trúc truyền thống trong bản. Một vấn đề nữa phải được lưu tâm và thời gian xây dựng các công trình bê tông hóa, không được diễn ra quá dài và phải đảm bảo không gây bủi bẩn và làm mất mỹ quan điểm du lịch. Khôi phục và trồng mới các hàng cây xanh và cây tự nhiên đã bị chặt phá từ trước để giúp bản lấy lại môi trường trong sạch và tọa nên một vẻ đẹp xanh trong mắt du khách.
Về cộng đồng và phát triển: thái độ tương tác giữa người dân và khách du lịch, tác phong chân chất và ngại giao tiếp của một bộ phận cộng đồng khiến họ bị hiểu lầm là thiếu niềm nở với khách du lịch. Để khắc phục vấn đề này, tốt hơn hết nên nghiên cứu thêm và đưa vào giáo án giảng dạy trong các kỳ tập huấn kinh doanh du lịch các kỹ năng về giao tiếp, ứng xử cho người dân mà không làm thay đổi bản chất văn hóa người dân địa phương tại đây. Các khóa học này mới hướng dẫn một số nghiệp vụ và kỹ năng cơ bản như tạo menu thực đơn song ngữ cho khách, hoạt động kinh doanh nhà ở homestay, tránh phản ứng gây mâu thuẫn với khách… (theo kết quả phỏng vấn người dân địa phương). Cùng với đó là tạo cho người dân một quy cách làm việc chuyên nghiệp, tránh các hiện tượng bỏ trống cửa hàng như phân tích ở phần trước.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Azizi, H., Biglari, M., & Joudi, P. (2011). Assessment the feasibility of sustainable tourism in urban environments employing the cumulative linear model. Procedia Engineering, 24-33.
2. Blancas, F. J., Gonzalez, M., Lozano-Oyola, M., & Perez, F. (2009). The assessment of sustainable tourism: Application to Spanish coastal destinations. Ecological Indicators, 484–492.
3. D. Rio, & L.M. Nunes. (2012). Monitoring and evaluation tool for tourism destinations. Tourism Management Perspectives, 64-66.
4. Dung, T. T. (2012). Tổng quan về ứng dụng phương pháp phân tích thứ bậc trong quản lý chuỗi cung ứng. Tạp chí Khoa học, 180-189.
5. García-Melón, M., Gómez-Navarro, T., & Acuña-Dutra, S. (2012). A combined ANP-delphi approach to evaluate sustainable tourism. Environmental Impact Assessment Review, 41-50.
6. Hải, L. T. (n.d.). Các chỉ số cho phát triển bền vững: Lấy ví dụ nghiên cứu điểm tỉnh Quảng Trị, Việt Nam. Kỷ yếu hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ ba.
PGS. TS. Lại Phi Hùng - Trường đại học Kinh tế Kỹ thuật – Công nghiệp
Souksanga Viyaketh - Bộ Kế hoạch và Đầu tư Lào
Tạp chí in số tháng 5/2025
email: [email protected], hotline: 086 508 6899