Kinh nghiệm quốc tế về quản lý hoạt động tín dụng tiêu dùng và một số bài học cho Việt Nam

19/04/2019, 02:16
chia sẻ bài viết

TCDN - Để giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về lĩnh vực này, bài viết giới thiệu những nét cơ bản về vai trò của tín dụng tiêu dùng, kinh nghiệm quốc tế về quản lý hoạt động của công ty TCTD tại một số quốc gia, từ đó đưa ra các bài học về việc quản lý hoạt động trong lĩnh vực này tại Việt Nam.

Tín dụng tiêu dùng đang ngày càng đáp ứng nhu cầu tài chính cho tiêu dùng và góp phần nâng cao mức sống của người dân. Tuy nhiên, thời gian vừa qua các phương tiện thông tin đại chúng thường xuyên phản ánh về một số bất cập trong hoạt động này như lãi suất quá cao, sự mập mờ trong các điều khoản của hợp đồng, những vấn đề bất cập trong quá trình thu nợ.... 

Quản lý hoạt động tín dụng tiêu dùng ở một số nước trên thế giới

Trung Quốc

Tại Trung Quốc, cơ quan cấp phép và quản lý hoạt động tín dụng tiêu dùng là Ủy ban quản lý ngân hàng Trung Quốc (China Banking Regulatory Commission - CBRC). Hiện tại, tổ chức và hoạt động của công ty tài chính tiêu dùng (TCTD) được quy định tại “Các biện pháp quản lý thí điểm đối với Công ty tài chính tiêu dùng” do CBRC ban hành, các quy định này độc lập với hệ thống các quy định điều chỉnh hoạt động ngân hàng.

Về phạm vi hoạt động: Theo pháp luật Trung Quốc, công ty TCTD là tổ chức tài chính phi ngân hàng không nhận tiền gửi của công chúng, chỉ cung cấp các khoản cho vay tiêu dùng cho cá nhân theo nguyên tắc số tiền nhỏ và phân tán.

Các công ty TCTD tại Trung Quốc không được nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân. Đồng thời, pháp luật Trung Quốc chỉ cho phép công ty TCTD cấp tín dụng dưới hình thức cho vay, và các khoản vay này phục vụ tiêu dùng hàng hóa lâu bền thông qua bên bán hàng, hệ quả của quy định này là các bên bán hàng trở thành điểm bán hàng (POS) của công ty TCTD.

Về mạng lưới hoạt động: Công ty TCTD có thể thành lập chi nhánh theo nhu cầu phát triển của công ty sau khi được CBRC chấp thuận. Những điều kiện cụ thể để thành lập chi nhánh sẽ được quy định riêng bởi CBRC. Công ty TCTD không được thực hiện hoạt động kinh doanh tại các địa điểm khác ngoài khu vực đã đăng ký mà không có sự chấp thuận của CBRC.

Về tỷ lệ an toàn vốn và các hạn chế bảo đảm an toàn: Pháp luật Trung Quốc quy định tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu giữa vốn tự có so với tổng tài sản có rủi ro đối với Công ty TCTD là 10% (theo pháp luật Việt Nam là 9%), đồng thời quy định cụ thể về các hạn chế liên quan đến toàn bộ khách hàng của Công ty TCTD, các điều kiện chung để vay tiêu dùng và hạn mức dư nợ vay dựa trên thu nhập của khách hàng. Mặt khác, trong khi pháp luật Việt Nam không quy định, Trung Quốc quy định về hạn chế số tiền vay liên ngân hàng của công ty TCTD không được vượt quá 100% tổng vốn; tỷ lệ cần thiết dự phòng rủi ro tài sản không thấp hơn 100%; quy định cụ thể các hạn chế liên quan đến hoạt động thuê ngoài để bảo đảm an toàn cho hoạt động kinh doanh của công ty TCTD. Ngoài ra, công ty tài chính tiêu dùng tại Trung Quốc không phải đáp ứng các điều kiện về tỷ lệ khả năng chi trả, tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung, dài hạn như đối với các ngân hàng.

Về bảo vệ người tiêu dùng: Pháp luật Trung Quốc quy định cụ thể về việc công ty TCTD không được thực hiện việc đe dọa, hăm dọa, quấy rối để đòi nợ trong mọi trường hợp. Trong trường hợp khách hàng không trả khoản nợ gốc và nợ lãi của các khoản vay theo hợp đồng vay, công ty TCTD phải đưa ra các hướng dẫn khách hàng chi trả theo đúng quy định của pháp luật hoặc tiến hành giải quyết tranh chấp theo thủ tục tố tụng dân sự.
Ấn Độ
Hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ấn Độ có thể được thực hiện bởi các chủ thể bao gồm: (i) ngân hàng; (ii) công ty tài chính phi ngân hàng (Non-banking financial companies - NBFCs) trong đó công ty TCTD cũng là một trong các loại hình công ty tài chính phi ngân hàng; hoặc (iii) các công ty chuyên cho vay đáp ứng mục đích mua một loại tài sản đặc định như: mua nhà (housing finance companies); mua ô tô (auto finance companies).

Tương tự như ở Việt Nam, Ngân hàng Trung ương Ấn Độ là cơ quan cấp, thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký cho NBFCs trên cơ sở đáp ứng các điều kiện cụ thể. Tuy nhiên, giống Trung Quốc, các công ty TCTD được điều chỉnh bởi một hệ thống các quy định riêng, độc lập với ngân hàng thương mại.

Về phạm vi hoạt động: Ấn Độ không cho phép NBFCs nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân trong mọi trường hợp. Do vậy, nguồn vốn hoạt động của NBFCs chủ yếu là vốn điều lệ và vốn vay.

Về tỷ lệ an toàn vốn và các hạn chế bảo đảm an toàn: Tỷ lệ an toàn vốn theo pháp luật Ấn Độ được quy định tăng dần theo lộ trình, hiện tại là 15%.

NBFCs không được cho vay đối với một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của chính Công ty và không quá 25% đối với một nhóm khách hàng; tổng vốn đầu tư vào cổ phiếu của một công ty khác không được vượt quá 15% vốn tự có của NBFCs và không quá 25% đối với một nhóm công ty; tổng vốn cho vay và đầu tư không được vượt quá 25% vốn tự có của NBFCs đối với một khách hàng và không vượt quá 40% đối với một nhóm khách hàng.

Về bảo vệ người tiêu dùng: Ngân hàng Trung ương Ấn Độ ban hành các quy tắc mang tính chất khuyến nghị thực thi bảo đảm công bằng (Fair Practices Code) đối với NBFCs nhằm bảo vệ quyền lợi của khách hàng, theo đó, đặt ra các yêu cầu đối với ngôn ngữ sử dụng trong hợp đồng, mẫu văn bản đề nghị vay vốn; quy định về hệ thống thông báo của NBFCs cho khách hàng về tiến độ xử lý tiếp nhận đề nghị vay vốn; các yêu cầu về minh bạch thông tin lãi suất, các loại phí, điều kiện khoản vay và các nội dung khác trong hợp đồng tín dụng.

Tương tự pháp luật Trung Quốc, trường hợp thu hồi nợ, NBFCs không được thực hiện bằng các hành vi quấy rối, làm phiền khách hàng như thường xuyên gọi điện cho khách hàng vào những thời điểm không thích hợp, sử dụng vũ lực để buộc trả nợ… Đồng thời, NBFCs phải có trách nhiệm tập huấn cho nhân viên của mình về cách ứng xử đúng mực với khách hàng.

Nhật Bản

Tại Nhật Bản, tổ chức tài chính nói chung được xếp vào một trong hai loại là ngân hàng hoặc tổ chức tài chính phi ngân hàng tùy thuộc tổ chức đó có được nhận tiền gửi hay không. Hai loại hình tổ chức tài chính này được điều chỉnh bởi hệ thống các quy định riêng với mức độ chặt chẽ khác nhau để bảo đảm sự hài hòa giữa mục tiêu bảo vệ người gửi tiền trong khi thúc đẩy sự phát triển của các dịch vụ tài chính phi ngân hàng. Tương tự các loại hình công ty khác, công ty tài chính tiêu dùng (TCTD) được đăng ký thành lập và hoạt động tại Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản (METI) mà không cần cấp Giấy phép như đối với ngân hàng. Hoạt động của công ty TCTD được điều chỉnh tại Luật Cho vay (theo đó chịu sự giám sát về hoạt động của Cơ quan dịch vụ tài chính - FSA) và Luật bán hàng trả góp (các hoạt động theo Luật này dưới sự giám sát của METI).

Về phạm vi hoạt động: Tương tự tại Trung Quốc và Ấn Độ, tổ chức tài chính phi ngân hàng nói chung tại Nhật Bản không được phép nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân.

Về tỷ lệ an toàn vốn và các hạn chế bảo đảm an toàn: Có thể nói hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động của các công ty TCTD tại Nhật Bản khá “thông thoáng”. Do không được phép nhận tiền gửi, các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng không phải chịu sự ràng buộc về các quy định đảm bảo an toàn như đối với ngân hàng. Việc cung ứng dịch vụ của các tổ chức này phụ thuộc vào phạm vi hoạt động khi đăng ký thành lập, theo đó có thể bao gồm các hoạt động như: Cho vay tiền, bán hàng trả góp, cho thuê, bao thanh toán, thẻ tín dụng… Các công ty này không phải đáp ứng điều kiện về vốn pháp định khi thành lập, tổ chức mạng lưới hoạt động thuộc quyền tự chủ và theo nhu cầu của công ty.

Bài học kinh nghiệm

Hiện tại, khuôn khổ pháp lý điều chỉnh về thành lập và hoạt động của cả ngân hàng và tổ chức tài chính phi ngân hàng được quy định chung tại Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010. Theo đó, chủ thể cung ứng các sản phẩm thuộc lĩnh vực tín dụng tiêu dùng bao gồm cả ngân hàng thương mại và Công ty Tài chính (Điều 108). Công ty Tài chính là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng được chia thành hai loại: (i) Công ty Tài chính tổng hợp được thực hiện tất cả các chức năng, nghiệp vụ theo quy định, trong đó có hoạt động nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân; cho vay tiêu dùng bằng hình thức cho vay mua trả góp; (ii) Công ty Tài chính chuyên ngành hoạt động chủ yếu trên một số lĩnh vực như tín dụng tiêu dùng, phát hành thẻ tín dụng, bao thanh toán và một số hoạt động khác, tuy nhiên không được nhận tiền gửi của cá nhân, tổ chức.

Dù được phép nhận tiền gửi (đối với Công ty Tài chính tổng hợp) hay không được phép nhận tiền gửi (đối với Công ty tài chính chuyên ngành), hiện tại cả hai loại hình Công ty tài chính này đều phải chịu các ràng buộc khá chặt chẽ tương tự như đối với các ngân hàng về vốn pháp định, mạng lưới hoạt động, tỷ lệ an toàn vốn và các hạn chế bảo đảm an toàn, cụ thể: (i) Về vốn pháp định: Để được xem xét cấp Giấy phép thành lập và hoạt động, Công ty TCTD phải đáp ứng điều kiện về vốn điều lệ không thấp hơn mức vốn pháp định; (ii) Về chi nhánh: Để được mở chi nhánh, Công ty TCTD phải đáp ứng các điều kiện nhất định về: Vốn điều lệ thực có; các tỷ lệ bảo đảm an toàn tại thời điểm đề nghị; có đầy đủ các quy định nội bộ quản lý hoạt động của chi nhánh; kết quả hoạt động kinh doanh của năm trước năm đề nghị; tỷ lệ nợ xấu đến thời điểm mở chi nhánh; và bộ máy quản trị, điều hành không có vi phạm quy định pháp luật. Đồng thời, số lượng chi nhánh (đối với Công ty tài chính tổng hợp) tối đa được mở, địa bàn dự định đặt chi nhánh cũng bị giới hạn nhất định; (iii) Về các hạn chế bảo đảm an toàn: Pháp luật hiện hành buộc Công ty TCTD phải thường xuyên duy trì các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động như đối với các ngân hàng thương mại, bao gồm: Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu; giới hạn tín dụng; tỷ lệ khả năng chi trả; và giới hạn góp vốn, mua cổ phần. Bên cạnh đó, các Công ty TCTD cũng phải thực hiện các quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động của mình như đối với các ngân hàng. Các quy định này thực tế gây ra nhiều trở ngại và không tạo điều kiện cho hoạt động của Công ty TCTD, vì trên thực tế các tổ chức tín dụng phi ngân hàng nói chung, công ty TCTD nói riêng có các đặc điểm tương đối khác với các ngân hàng thương mại về vốn, tài sản, các sản phẩm tài chính và đối tượng khách hàng.

Như vậy, quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt động tín dụng tiêu dùng còn tương đối khác biệt so với đa số các hệ thống tài chính trên thế giới, chưa hoàn toàn phù hợp với bản chất của hoạt động này, do vậy, chưa tạo được môi trường pháp lý thuận lợi để thúc đẩy sự phát triển của loại hình dịch vụ TCTD. Để tạo môi trường kinh doanh hấp dẫn hơn với các nhà đầu tư, từ đó tạo ra các sản phẩm tài chính tiêu dùng đa dạng, phong phú cung ứng bởi nhiều công ty TCTD, theo đó nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính của người dân, kích cầu tiêu dùng hàng hóa, sản phẩm và thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh, các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của công ty TCTD cần được rà soát, xem xét sửa đổi, bổ sung. Trên cơ sở xem xét các kinh nghiệm của các nước có lĩnh vực tài chính tiêu dùng phát triển sớm hơn như Nhật Bản, Trung Quốc và Ấn Độ, việc sửa đổi khung pháp lý hiện hành có thể tập trung vào một số điểm chính như sau:

Thứ nhất, đặc điểm chung và then chốt trong phạm vi hoạt động của công ty TCTD ở hầu hết các quốc gia trên thế giới là không được nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân. Trên thực tế, nguồn vốn hoạt động chủ yếu của các công ty TCTD là từ vốn điều lệ và vốn đi vay của các ngân hàng. Một khi các Công ty TCTD không được huy động tiền gửi từ công chúng thì mức độ rủi ro đối với hệ thống tổ chức tín dụng sẽ giảm bớt, do vậy, các yêu cầu về quản lý đối với chủ thể này cần phải được giảm đi tương ứng, và khi đó không cần quá nhiều các quy định pháp luật mang tính “kiểm soát”, thay vào đó là các quy định có tính chất “thúc đẩy” để lĩnh vực này phát triển hơn, xứng với tiềm năng của nó.

Thứ hai, khung pháp lý điều chỉnh việc thành lập và hoạt động của các công ty TCTD cần phải tách biệt với hệ thống quy định điều chỉnh đối với ngân hàng thương mại. Trong đó, cùng với việc quy định không cho phép các công ty TCTD nhận tiền gửi của cá nhân, các yêu cầu về vốn pháp định khi thành lập, điều kiện về việc mở chi nhánh, thiết lập mạng lưới kinh doanh, các quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động, và các hạn chế bảo đảm an toàn đối với công ty TCTD cần phải được nới lỏng hơn. Có như vậy, mới tạo được môi trường pháp lý thuận lợi cho lĩnh vực này phát triển.

Thứ ba, mức độ giám sát đối với các công ty TCTD cần thông thoáng hơn. Thông thường, yêu cầu về giám sát đối với tổ chức tài chính xuất phát từ mức độ rủi ro trong hoạt động mà các đối tượng này có thể ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống tài chính (mức độ rủi ro hệ thống). Một khi các công ty TCTD không còn được nhận tiền gửi để cấp tín dụng thì việc giám sát chặt chẽ với các chủ thể này như hiện nay dường như là không cần thiết. Đồng thời, trong trường hợp này nguồn vốn hoạt động chủ yếu của công ty TCTD sẽ là từ nguồn đi vay các ngân hàng thì chủ thể có nhu cầu giám sát chặt chẽ hoạt động của các công ty tài chính lại chính là các ngân hàng cho vay. Như vậy, khối lượng công việc của cơ quan quản lý nhà nước sẽ giảm đi, chi phí hoạt động liên quan đến việc báo cáo cơ quan quản lý nhà nước của các công ty TCTD tương ứng sẽ giảm theo.

Cuối cùng, để hạn chế một số yếu tố tiêu cực có thể có gắn với lĩnh vực tài chính tiêu dùng cũng như tạo ra một môi trường pháp lý lành mạnh, một kinh nghiệm quý báu mà hầu hết các nước phát triển đã trải qua là phải có các quy định về bảo vệ người tiêu dùng, cụ thể như: các yêu cầu về minh bạch hóa các sản phẩm tài chính, yêu cầu về cách xử sự đúng mức của công ty TCTD, nhân viên của công ty TCTD đối với khách hàng trong quá trình thu hồi, xử lý nợ. Bên cạnh đó, việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của người dân về các sản phẩm tín dụng tiêu dùng là hết sức quan trọng.
Tóm lại, sự phát triển của lĩnh vực tài chính tiêu dùng là tất yếu. Vai trò của loại hình dịch vụ tài chính này đối với xã hội là rất rõ ràng. Để góp phần thúc đẩy lĩnh vực tài chính tiêu dùng tại Việt Nam phát triển hơn, yêu cầu tạo ra môi trường pháp lý an toàn, lành mạnh thông qua việc sửa đổi, hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành điều chỉnh lĩnh vực tín dụng tiêu dùng nói riêng và hoạt động của các tổ chức tín dụng phi ngân hàng nói chung là yêu cầu cấp thiết.


Lê Nam Long - Khoa Tài chính - Trường Đại học Thương Mại - Tạp chí TCDN số 4/2019
Bạn đang đọc bài viết Kinh nghiệm quốc tế về quản lý hoạt động tín dụng tiêu dùng và một số bài học cho Việt Nam tại chuyên mục Tài chính quốc tế của Tạp chí Tài chính doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác:

email: [email protected], hotline: 086 508 6899

x