Năm 2030: Việt Nam sẽ thuộc nhóm nước có mức thu nhập trung bình cao
TCDN - Mục tiêu tổng quát về kinh tế là Việt Nam đạt trình độ phát triển của nhóm nước có mức thu nhập trung bình cao vào năm 2030. Các thành quả đạt được dựa trên cơ sở tăng trưởng kinh tế nhanh gắn với chất lượng và hiệu quả ngày càng cao bằng việc khai thác các động lực tăng trưởng mới.
Đây là đề xuất của các chuyên gia Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đối với mục tiêu kinh tế cho giai đoạn 2021 - 2030 tại Hội thảo khoa học quốc gia với chủ đề: “Đại học Kinh tế Quốc dân đóng góp xây dựng văn kiện Đại hội Đảng: Lựa chọn để phát triển”. Hội thảo có sự tham dự và chủ trì của GS.TS Vương Đình Huệ - Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ.
Phát biểu khai mạc, PGS.TS Phạm Hồng Chương - Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho biết, trước thềm Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã tập hợp các nhà khoa học hàng đầu của Nhà trường để nghiên cứu đánh giá việc thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020 và nghiên cứu các giải pháp chiến lược cho giai đoạn 10 năm 2021-2030 và giai đoạn 5 năm 2021-2025.
Thông qua Hội thảo, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân muốn truyền tải các kết quả các nghiên cứu là kết tinh trí tuệ của tập thể sư phạm Nhà trường với mong muốn được đóng góp cho Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII, xứng đáng với vị thế hàng đầu trong khối các trường ĐH về kinh tế, quản trị kinh doanh và quản lý kinh tế trong việc nghiên cứu các vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng của nền kinh tế và xây dựng các chính sách phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Tại Hội thảo, đại diện nhóm nghiên cứu, GS.TS Ngô Thắng Lợi, Đại học Kinh tế quốc dân cho biết, Việt Nam hiện đang nằm ở mức cận giữa của các nước phát triển ở trình độ thu nhập trung bình thấp. Nhận định này được đưa ra trên cơ sở đánh giá tổng quan nền kinh tế dựa trên 3 tiêu chí: đánh giá chung về thực hiện mục tiêu và các chỉ tiêu kinh tế; đánh giá theo tiêu chí xếp loại trình độ phát triển quốc tế của ngân hàng thế giới (WB); đánh giá dựa trên tiêu chí một quốc gia có nền kinh tế thịnh vượng, xã hội hài hòa và tương lai bền vững.
Về thực hiện mục tiêu và các chỉ tiêu kinh tế: So với mục tiêu kinh tế đặt ra trong kế hoạch 5 năm 2016-2020, có 11/54 chỉ tiêu không đạt. Trong đó, có những chỉ tiêu quan trọng là tốc độ tăng trưởng GDP; thu nhập bình quân đầu người; cơ cấu ngành kinh tế và phần lớn các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tăng trưởng.
So với mục tiêu kinh tế đặt ra trong chiến lược 2011 - 2020 Việt Nam đã không thực hiện được mục tiêu đặt ra đối với lĩnh vực kinh tế cả số lượng và chất lượng.
Đặc biệt, các thành quả đạt được về kinh tế được đánh giá thấp không phải chỉ so với mục tiêu mà còn so với những thành quả các quốc gia khác đạt được ở giai đoạn phát triển như Việt Nam.
Thứ nhất, kết quả tăng trưởng đạt được thấp hơn nhiều so với các nước trong giai đoạn tăng trưởng nhanh như Việt Nam đã đạt được. Nếu xét trong 30 năm từ năm 1991 - 2020 tốc độ tăng trưởng GDP trung bình của Việt Nam đạt 7,14% thì Hàn Quốc trong giai đoạn tăng trưởng nhanh xấp xỉ 4 thập niên từ năm 1961 - 2000 tăng trưởng trung bình đạt khoảng 8% và ở Nhật Bản giai đoạn từ năm 1955 - 1973 con số này là 9,4% /năm.
Thứ hai, hiệu quả tăng trưởng thấp: so với các nước trong giai đoạn tăng trưởng nhanh như Việt Nam hiện nay, mức đạt được của Việt Nam còn thấp. Nhật Bản trong giai đoạn tăng trưởng nhanh từ 1955 – 1973, suất đầu tư tăng trưởng chỉ là ba trong khi đó ở Việt Nam trong giai đoạn 2011- 2018 con số này là 5,4. Tốc độ tăng trưởng năng suất lao động của Nhật Bản giai đoạn 1945 - 1973 là 7,5%/năm của Hàn Quốc là 6,5%/năm; trong khi đó của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2018 chỉ đạt 5,1%/năm.
Thứ ba, cấu trúc tăng trưởng thể hiện tính lạc hậu công nghệ: đóng góp của nhân tố tfp chỉ chiếm 26,1% giai đoạn 2011 – 2018, trong khi đó các nước đang phát triển mức trung bình đạt được xấp xỉ là 40%.
Đánh giá theo tiêu chí xếp loại trình độ phát triển quốc tế của WB, Việt Nam vào thời điểm hiện nay đạt trình độ phát triển giai đoạn đầu của nhóm nước có mức thu nhập trung bình thấp. Cụ thể thu nhập bình quân đầu người nằm ở cận dưới của các nước thu nhập trung bình thấp là 6222,3 USD/6.000 - 7.000 USD; cơ cấu ngành theo GDP còn lạc hậu hơn các mức chung của nhóm nước này, tỉ trọng GDP nông nghiệp khá cao 16,19% so với 14,9% và tỷ trọng GDP dịch vụ quá thấp 45,73% so với 49%; các tiêu chí khác như tỷ lệ lao động nông nghiệp năng suất lao động hay tỷ lệ tích lũy nội địa cũng đều đạt mức thấp, chỉ tiệm cận được với mức của nhóm nước có mức thu nhập trung bình thấp.
Từ những phân tích trên, đồng thời căn cứ vào các mục tiêu phát triển kinh tế Việt Nam đã đặt ra trong các văn kiện đã có đến năm 2035, năm 2045, nhóm nghiên cứu trường Đại học Kinh tế quốc dân đề xuất mục tiêu tổng quát về kinh tế đến năm 2025 và năm 2030 là Việt Nam đạt trình độ phát triển của nhóm nước có mức thu nhập trung bình cao vào năm 2030.
Các thành quả đạt được dựa trên cơ sở tăng trưởng kinh tế nhanh gắn với chất lượng và hiệu quả ngày càng cao bằng việc khai thác các động lực tăng trưởng mới. Trong đó, động lực thứ nhất là khu vực tư nhân đổi mới năng động sáng tạo thực sự là động lực tăng trưởng số 1 của nền kinh tế dựa trên nòng cốt là các tập đoàn kinh tế tư nhân chi phối ngày càng nhiều ngành và lĩnh vực của nền kinh tế.
Động lực thứ hai là nguồn nhân lực chất lượng cao luôn duy trì động lực sáng tạo, mạnh dạn khởi nghiệp và phát triển kinh doanh theo phương thức hiện đại, chấp thuận rủi ro.
Động lực thứ ba là, khoa học công nghệ cao được áp dụng trong các ngành kinh tế cả trong sản xuất kinh doanh và trong quản lý điều hành phát triển với nội dung thích ứng với xu thế phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Động lực thứ tư là thiết lập được vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu. Chuỗi giá trị này bắt đầu từ những ngành sản phẩm nông nghiệp có giá trị kinh tế cao quy mô lớn từ đó đầu tư phát triển các ngành công nghiệp thương mại dịch vụ tương ứng với quy trình cung cấp đầu vào xử lý chế biến đầu ra theo chiều sâu tiêu thụ các sản phẩm dựa trên công nghệ cao.
Trình bày tham luận Khát vọng đất nước Việt Nam có nền kinh tế thịnh vượng, xã hội hài hòa và tương lai bền vững, PGS.TS Trần Thọ Đạt, Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học kinh tế quốc dân gợi ý các kịch bản tăng trưởng đối với Việt Nam. Cụ thể, kịch bản 0: duy trì tăng trưởng mức hiện tại là 6%/năm. Đến năm 2030 GDP/người của Việt Nam đạt 14.987 USD, tương đương với Hàn Quốc năm 1994; Malaysia năm 1995; Trung Quốc năm 2017. Đến năm 2045 GDP/người của Việt Nam đạt 31.156 USD, tương đương với Hàn Quốc năm 2011; Malaysia năm 2022; Trung Quốc năm 2030.
Kịch bản 1 - mô hình Malaysia: tăng trưởng GDP từ 7 - 8%/năm. Theo kịch bản này năm 2030 GDP/người Việt Nam đạt 17.768 USD, tương đương Hàn Quốc năm 1996, Malaysia năm 2004, Trung Quốc năm 2020. Đến năm 2045 GDP/người của Việt Nam đạt 45.695 USD, tương đương Hàn Quốc năm 2027; Malaysia năm 2033; Trung Quốc năm 2037.
Kịch bản 2 - mô hình Hàn Quốc: tăng trưởng GDP 2 giai đoạn 2021 đến 2025 đạt 7 - 8%/năm và giai đoạn 2026 đến 2045 là 9 - 10%/năm. Ttheo mô hình này đến năm 2030 GDP/người của Việt Nam đạt 19.500 USD, tương đương Hàn Quốc năm 1999; Malaysia năm 2007; Trung Quốc năm 2021. Đến năm 2045 GDP/người của Việt Nam đạt 66.294 usd, tương đương Hàn Quốc năm 2042; Malaysia năm 2043; Trung Quốc năm 2044.
Kịch bản 3 - mô hình Trung Quốc: tăng trưởng GDP liên tục từ 9 - 10%/năm. Với mức tăng trưởng này, đến năm 2030 GDP/người của Việt Nam đạt 22.212 USD, tương đương Hàn Quốc năm 2002; Malaysia năm 2012; Trung Quốc năm 2024. Đến năm 2045 GDP/người của Việt Nam đạt 75.515 USD vượt qua Hàn Quốc, Malaysia và Trung Quốc tại thời điểm đó.
Trên cơ sở phân tích các căn cứ để đạt được khát vọng, các chuyên gia của trường Đại học Kinh tế Quốc dân nhấn mạnh, mô hình Hàn Quốc là lựa chọn phù hợp với hiện trạng và khát vọng của Việt Nam. Tuy nhiên, để bứt phá thành công, Việt Nam cần kết hợp được sự hài hòa xã hội của Malaysia và hiệu quả kiểm soát nhà nước của Trung Quốc Việt Nam.
Phát biểu chỉ đạo hội thảo, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ đánh giá cao đề xuất của Trường Đại học Kinh tế quốc dân, các chuyên gia kinh tế về hướng đi trong Chiến lược 10 năm tới của đất nước và tầm nhìn tới năm 2045.
Tuy nhiên, Phó Thủ tướng nhấn mạnh, Việt Nam cần có con đường đi riêng với các giải pháp khả thi. Theo đó, Trường Đại học Kinh tế quốc dân và các nhà khoa học tập trung nghiên cứu rõ 8 mối quan hệ lớn trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) gồm: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Ngoài ra, hội thảo cần làm rõ 2 mối quan hệ khác, đó là quan hệ giữa Nhà nước với thị trường xã hội; giữa mở rộng dân chủ đi liền với kỷ cương xã hội.
Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ cho biết, để xây dựng, hoàn thiện tốt nhất văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Đảng, Nhà nước tiếp tục tham vấn ý kiến đóng góp của các chuyên gia kinh tế, các tổ chức kinh tế quốc tế.
email: [email protected], hotline: 086 508 6899