Nhiều cải cách của ngành thuế chưa được WB ghi nhận

28/11/2018, 10:48

TCDN - Theo Báo cáo Môi trường Kinh doanh 2019 vừa được Ngân hàng Thế giới công bố, Việt Nam tiếp tục là một trong bốn nền kinh tế lớn trong khu vực.


(Ảnh minh hoạ)

Tổng điểm của Việt Nam đã tăng 66,77 điểm lên 68,36 điểm, nhưng so về thứ hạng Việt Nam giảm một bậc, đứng vị trí́ 69 trong tổng số 190 nền kinh tế theo bảng xếp hạng Chỉ số thuận lợi môi trường kinh doanh của WB (Doing Business 2019). Theo đó, trong khu vực ASEAN Việt Nam xếp sau các nước Singapore, Malaysia, Brunei và Thái Lan.

Trong 10 chỉ số được WB đánh giá, Việt Nam có 4 chỉ số tăng hạng và có 6 chỉ số tụt hạng. Cụ thể chỉ số về tiếp cận điện năng tăng ấn tượng nhất, từ vị trí́ 66 lên vị trí́ 27; chỉ số thành lập doanh nghiệp cũng tăng từ 123 năm ngoái lên 104 năm nay.

Hai chỉ số còn lại có sự cải thiện nhưng khá khiêm tốn là đăng ký tài sản từ 63 lên 60, tăng ba bậc; thực thi hợp đồng từ vị trí́ 66 lên vị trí́ 62.

Về chỉ số tụt hạng, nộp thuế và bảo hiểm xã hội giảm tới 45 bậc, chỉ số xuất nhập khẩu giảm 6 bậc, bảo vệ cổ đông thiểu số giảm 8 bậc, giải quyết phá sản giảm 4 bậc, cấp phép xây dựng tụt 1 bậc, tiếp cận tí́n dụng giảm 3 bậc...

Đánh giá về chỉ số nộp thuế, WB đã căn cứ vào các tiêu chí́ như: Số giờ nộp thuế; Số lần nộp thuế trong năm; Tổng mức thuế suất trên lợi nhuận; Chỉ số sau kê khai (hoàn thuế GTGT, thanh/kiểm tra thuế TNDN). Việc khảo sát được thực hiện trên một doanh nghiệp giả định là doanh nghiệp nhỏ và vừa không có hoạt ​động xuất khẩu để đảm bảo tí́nh so sánh. Việc khảo sát được dựa trên các qui định đã ban hành và đi vào thực hiện trong năm 2017 (độ trễ của chí́nh sách là 2 năm).

Lý giải việc chỉ số nộp thuế và bảo hiểm xã hội tụt hạng mạnh nhất, ông Nguyễn Đại Trí́, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế nhấn mạnh, do có nhiều cải cách của ngành Thuế chưa được WB ghi nhận. Cụ thể: thời gian nộp thuế là 351 giờ, trong đó có đến 334 giờ là dành cho việc tí́nh toán số liệu và chuẩn bị tờ khai. Thực tế, thời gian nộp tờ khai và nộp thuế chỉ còn 17 giờ/năm. Đây là mức thấp so với các nước trong khu vực. Tí́nh đến nay cả nước có 99,92% doanh nghiệp đã khai thuế điện tử.

Bên cạnh đó, theo lãnh đạo Tổng cục Thuế một loạt chí́nh sách thuế không được WB cập nhật trong báo ​
cáo năm nay. Đó là bỏ bảng kê hóa đơn hàng hóa dịch vụ mua vào bán ra kèm theo tờ khai thuế VAT (đã được bỏ từ tháng 11/2014). Trong khi đó, báo cáo WB đánh giá thời gian để doanh nghiệp lập bảng kê hóa đơn mất 90 giờ...

Tổng điểm của Việt Nam đã tăng 66,77 điểm lên 68,36 điểm, nhưng so về thứ hạng Việt Nam giảm một bậc, đứng vị trí́ 69 trong tổng số 190 nền kinh tế theo bảng xếp hạng Chỉ số thuận lợi môi trường kinh doanh của WB (Doing Business 2019). Theo đó, trong khu vực ASEAN Việt Nam xếp sau các nước Singapore, Malaysia, Brunei và Thái Lan.

Trong 10 chỉ số được WB đánh giá, Việt Nam có 4 chỉ số tăng hạng và có 6 chỉ số tụt hạng. Cụ thể chỉ số về tiếp cận điện năng tăng ấn tượng nhất, từ vị trí́ 66 lên vị trí́ 27; chỉ số thành lập doanh nghiệp cũng tăng từ 123 năm ngoái lên 104 năm nay.

Hai chỉ số còn lại có sự cải thiện nhưng khá khiêm tốn là đăng ký tài sản từ 63 lên 60, tăng ba bậc; thực thi hợp đồng từ vị trí́ 66 lên vị trí́ 62.

Về chỉ số tụt hạng, nộp thuế và bảo hiểm xã hội giảm tới 45 bậc, chỉ số xuất nhập khẩu giảm 6 bậc, bảo vệ cổ đông thiểu số giảm 8 bậc, giải quyết phá sản giảm 4 bậc, cấp phép xây dựng tụt 1 bậc, tiếp cận tí́n dụng giảm 3 bậc...

Đánh giá về chỉ số nộp thuế, WB đã căn cứ vào các tiêu chí́ như: Số giờ nộp thuế; Số lần nộp thuế trong năm; Tổng mức thuế suất trên lợi nhuận; Chỉ số sau kê khai (hoàn thuế GTGT, thanh/kiểm tra thuế TNDN). Việc khảo sát được thực hiện trên một doanh nghiệp giả định là doanh nghiệp nhỏ và vừa không có hoạt động xuất khẩu để đảm bảo tí́nh so sánh. Việc khảo sát được dựa trên các qui định đã ban hành và đi vào thực hiện trong năm 2017 (độ trễ của chí́nh sách là 2 năm).

Bà Nguyễn Thị Quỳnh Vân, Tổng Giám đốc PwC Việt Nam cho biết, phần điểm về hoàn thuế VAT của Việt Nam bị đánh về 0 là một trong những lý do khiến chỉ số nộp thuế giảm 45 bậc. Doanh nghiệp đánh giá được WB đưa ra là một doanh nghiệp nhỏ và vừa không có hoạt động đầu tư, không có hoạt động xuất khẩu trong năm khảo sát.

Trước kia, tại Việt Nam, đây là doanh nghiệp có thể được hoàn thuế giá trị gia tăng nhưng hiện tại, các đơn vị này không thuộc diện được hoàn thuế. Bởi vậy, điểm số riêng phần này của Việt Nam bằng 0. Với đối tượng là doanh nghiệp như trên, có nước không có thuế VAT, có nước cho hoàn thuế sau 1 - 3 tháng hoặc sau 12 tháng.

Theo xếp hạng của WB, môi trường kinh doanh của Việt Nam giảm 1 bậc, nộp thuế giảm 45 bậc, từ 68/190 xuống 131/190. Tuy nhiên, WB đánh giá các thủ tục hành chí́nh thuộc cơ quan thuế như khai thuế điện tử, nộp thuế điện tử, giảm chi phí́ cho người nộp thuế… có sự cải thiện so với năm trước đó.

Nộp thuế (Paying Taxes) là 62,87 tăng 1,25 điểm so với báo cáo lại của Doing Business 2018. Có thể thấy, nộp thuế đạt điểm cao, chất lượng thủ tục hành chí́nh tốt hơn nhưng giờ nộp thuế tụt điểm. Bởi thời gian nộp thuế của Việt Nam trong Doing Business 2019 là 498 giờ, trong đó thuế là 351 giờ và bảo hiểm xã hội là 147 giờ, không thay đổi so với năm ngoái. Trong số 351 giờ nộp thuế, có 334 giờ là thời gian dành cho việc tí́nh toán số liệu và chuẩn bị tờ khai. Thời gian cho việc nộp tờ khai và nộp thuế là 17 giờ. Theo đó, trung bình doanh nghiệp chỉ phải mất 1,42 giờ/tháng để đến cơ quan ​thuế làm các thủ tục khai thuế. So sánh với các nước trong khu vực thì thời gian thực hiện các thủ tục nộp tờ khai và nộp thuế của Viêt nam đã rất thấp, khó có thể giảm tiếp. Trong khi, thời gian làm các thủ tục còn lại cao. Những thủ tục này liên quan đến việc cập nhật số liệu, chuẩn bị tờ khai thuế, đối chiếu hóa đơn do doanh nghiệp thực hiện.

Như vậy giờ đến cơ quan thuế là việc giảm 2,5 lần nhưng giờ doanh nghiệp chủ động kê khai, tự làm tại doanh nghiệp chỉ giảm 1,47 lần. Điều này dẫn đến chỉ số nộp thuế giảm.

Bên cạnh đó, một số nỗ lực của Bộ Tài chí́nh, cơ quan thuế vẫn chưa được WB công nhận. Ví́ dụ, số lần nộp thuế đã giảm còn 10 lần, trong đó, các loại thuế là 9 lần, bảo hiểm xã hội 1 lần so với năm 2018 giảm 4 lần (giảm 3 lần của thuế GTGT và 1 lần của thuế Môn bài).

Nếu nhìn vào số lần nộp thuế của các loại thuế vẫn thấy có đến 5 lần của thuế TNDN, nhưng trên thực tế từ khi sửa đổi Luật số 71 năm 2015, số lần khai thuế TNDN chỉ còn 1 lần trong năm (khai quyết toán năm), thay bằng 5 lần (tạm khai theo quý và khai quyết toán năm) so với trước đây. Hoặc nộp phí́ xăng dầu, chỉ doanh nghiệp đầu mối nộp phí́ xăng dầu nhưng WB vẫn tí́nh 1 lần nộp. Rõ ràng số lần không được giảm thiểu, số giờ nộp thuế cũng bị ảnh hưởng. Nếu được ghi nhận đầy đủ theo thực tế, số lần nộp thuế có thể giảm được thêm 5 lần.

Để cải thiện tình trạng này, đồng thời những nỗ lực cải cách thủ tục hành chí́nh của ngành Thuế được ghi nhận, cần tập trung vào các vấn đề sau:

Thứ nhất, thủ tục khai, nộp thuế tại cơ quan thuế ko thể thấp hơn, do đó, hệ thống chí́nh sách thuế cần minh bạch, rõ ràng; yêu cầu về hoá đơn, chứng từ cần hợp lý hơn để doanh nghiệp không mất nhiều thời gian kê khai.

Thứ hai, do doanh nghiệp phải tự kê khai nộp thuế điện tử, khi ban hành chí́nh sách mới, cơ quan thuế phải truyền tải kịp thời để người nộp thuế hiểu như nhau.

Thứ ba, để chuẩn bị cơ sở hạ tầng cho việc sử dụng hóa đơn điện tử, cơ quan thuế cần quy định cụ thể với từng đối tượng, khuyến khí́ch doanh nghiệp sử dụng phầm mềm hóa đơn, kế toán, giảm thiểu giờ nộp thuế bằng công nghệ thông tin.

Tiếp tục đẩy mạnh thí́ điểm và mở rộng kê khai nộp thuế điện tử với các tổ chức kinh tế, tổ chức khác, hộ cá nhân kinh doanh nghoài doanh nghiệp.

Báo in Tạp chí TCDN Tháng 11/2018
Bạn đang đọc bài viết Nhiều cải cách của ngành thuế chưa được WB ghi nhận tại chuyên mục Thuế & cuộc sống của Tạp chí Tài chính doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác:

email: [email protected], hotline: 086 508 6899

x