Phân tích hiệu quả sản xuất lúa trong phát triển kinh tế tại tỉnh Hậu Giang

24/06/2025, 10:05

TCDN - Trong điều kiện hiện nay ngành lúa gạo Việt Nam vẫn còn có nhiều khó khăn và thách thức, đặc biệt là dưới sức ép cạnh tranh ngày một tăng của quá trình hội nhập quốc tế. Để khắc phục hoàn cảnh chung đó, nông dân Hậu Giang cần đưa ra các giải pháp thiết thực trong việc áp dụng kỹ thuật phù hợp.

Tóm tắt

Sản xuất lúa gạo đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế Nông nghiệp và Nông thôn Việt Nam, có khoảng 80% hộ nông dân tham gia sản xuất lúa gạo. Trong gần ba thập kỷ qua nhờ có đổi mới cơ chế quản lý, Việt Nam đã đạt được những thành tựu lớn trong sản xuất lúa gạo, không những đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước mà hàng năm còn xuất khẩu gạo ra nước ngoài. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay ngành lúa gạo Việt Nam vẫn còn có nhiều khó khăn và thách thức, đặc biệt là dưới sức ép cạnh tranh ngày một tăng của quá trình hội nhập quốc tế. Để khắc phục hoàn cảnh chung đó, nông dân Hậu Giang cần đưa ra các giải pháp thiết thực trong việc áp dụng kỹ thuật phù hợp, nâng cao chất lượng lao động mang lại hiệu quả kinh tế đối với nông hộ.

1. Thực trạng sản xuất lúa tại Hậu Giang

Kết quả điều tra ở vùng nghiên cứu cho thấy diện tích mỗi nông hộ canh tác lúa trung bình là 1,37ha/hộ, mức thấp nhất là 0,2ha/hộ, cao nhất là 5,2 ha/hộ. Với qui mô sản xuất như vậy thì mỗi nông hộ đều đầu tư vào một lượng tiền nhất định cho hoạt động sản xuất của mình.

Trong các vụ lúa thì vụ Đông Xuân là vụ lúa chính và quyết định nhiều nhất đến cuộc sống của một nông hộ trong cả một năm, cho nên trong tất cả các hộ điều tra thì có đến 100% số hộ tham gia sản xuất vụ này và đương nhiên sẽ đầu tư chu đáo để tận dụng được triệt để điều kiện tự nhiên thuận lợi của vụ này, trong các cho phí đầu tư phải kể đến:

- Chi phí giống: Theo tính toán của tác giả thì trên một ha đất canh tác người dân sử dụng trung bình từ 180kg -210 kg giống,. Nguyên nhân dễ thấy là do gần đây việc áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật vào sản xuất như 3G-3T, sạ hàng đã giúp người dân tiết kiệm hơn lượng giống tuy nhiên do số hộ áp dụng các biện pháp này không nhiều lắm nên dù có giảm nhưng không đáng kể. Vì đáp ứng cho nhu cầu lúa xuất khẩu đòi hỏi những giống lúa chất lượng và tránh dịch bệnh nên nông dân thường chọn những giống có chất lượng mà thị trường đang cần cho nên nông dân cũng hạn chế việc để giống nhà mà mua những giống mới thông qua nhiều kênh như mua tại trung tâm khuyến nông huyện, mua tại các đại lý phân bón hay mua từ các hộ khác với mức giá trung bình vụ này khoảng 7.000đ/kg, cao nhất lên đến 20.000đ/kg. Giá lúa giống cũng biến đổi liên tục theo thị trường cho nên ở địa phương cũng đã thực hiện việc trợ giống cho nông dân tuy nhiên giống vẫn chiếm hơn 8,5% trong chi phí sản xuất.

- Chi phí phân bón: Mỗi mùa vụ nông dân thường bón phân ba lần, thời điểm này chính xác như thế nào là còn tùy vào kinh nghiệm trồng lúa của mỗi hộ nhưng nhìn chung các nông hộ đều sử dụng các loại phân chính như Ure, NPK, và DAP. Lượng phân của các loại này trung bình gần 300kg trên một ha cho vụ Đông Xuân tương ứng với chi phí phân bón mà nông dân phải bỏ ra cho vụ này chiếm khoảng 29% trong tổng chi phí. Nhìn vào cơ cấu này ta thấy chi phí cho phân bón là phần chi phí lớn nhất mà nông dân cần phải đầu tư. Mặc dù vậy nhưng hiện nay nông dân cũng có nhiều thuận lợi hơn trong việc đầu tư một khoảng chi phí lớn bởi các đại lý bán phân bón cho nông dân mua chịu cả phân và thuốc trừ sâu, thuốc dưỡng, các hộ này buộc phải trả sau mỗi mùa thu hoạch với mức giá cao hơn giá trả ngay khi mua từ 5-10%. Mặc dù hình thức mua này làm tăng chi phí phân trong cơ cấu chi phí nhưng thực tế là có hơn 90% nông hộ chọn hình thức thanh toán này.

- Chi phí thuốc trừ sâu, bảo vệ thực vật: Nhìn chung tình hình dịch bệnh tại vụ này tương đối nhẹ tuy nhiên người dân vẫn chú tâm nhiều đến việc xịt thuốc dưỡng, thuốc phòng ngừa dịch hại nên đẩy chi phí này lên đến trên 14% trong cơ cấu chi phí. Đây có thể nói cũng là một khoảng chi phí đáng kể trong hoạt động sản xuất của nông hộ.

- Chi phí cơ giới hóa: Bao gồm các khoản chi phí như tưới tiêu, cày, trục và đầu tư máy móc để ứng dụng khoa học kỹ thuật.... Do điều kiện thời tiết, khí hậu, lượng mưa, lượng nước của vùng nghiên cứu tương đối thuận lợi cho nên việc đầu tư máy móc thiết bị hỗ trợ sản xuất cũng đơn giản, từng nông hộ đầu tư một máy bơm nước sử dụng chung cho nhiều hoạt động trong sản xuất cũng như sinh hoạt, hoặc có những hộ thuộc vùng có hỗ trợ các trạm bơm thì càng thuận tiện và tiết kiệm được chi phí hơn bởi không cần đầu tư nhiều vẫn đảm bảo đủ lượng nước mà mỗi vụ chỉ phải trả từ 30.000đ - 50.000đ. Nhìn chung các chi phí này gọi chung là cơ giới hóa cũng chiếm trên 7% trong cơ cấu chi phí. Ở đây không có sự khác nhau lớn giữa các vụ Đông Xuân, Thu Đông hay Hè Thu vì chi phí cày, trục đất thì nông dân hầu như thuê và được tính trung bình theo công và giá cho từng công không bị thay đổi theo mùa vụ mà chỉ biến đổi theo giá xăng dầu. Đối với các hộ vào trạm bơm cũng vậy, không kể vụ nào bơm nhiều nước hay ít nước thì giá cũng được tính cố định.

- Chi phí thu hoạch: Ở đây tác giả đưa vào chi phí thu hoạch để nói đến chi phí cắt lúa, suốt lúa, chuyên chở và phơi sấy...Trong bài này chi phí bán tương đối nhỏ vì hầu hết nông dân bán cho thương lái và thương lái thông thường cứ theo chu kỳ và tự tìm đến thỏa thuận mua bán với các nông hộ nên không tốn chi phí liên hệ, chi phí chuyên chở...Ngày nay, việc gặt lúa không được thuê theo ngày công lao động mà thuê khoán theo công, trung bình mỗi công lúa phải trả từ 120.000-200.000đ tùy vào lúa đứng hay ngã. Các chi phí này cũng không có sự khác nhau giữa các mùa mà chi phí này sẽ biến đổi theo giá cả thị trường cho nên trung bình nó đóng góp trên 15% tổng chi phí.

- Chi phí lao động: Trong chi phí lao động này chúng ta chia thành lao động nhà và lao động thuê. Trung bình mỗi ha cần 46,77 ngày công lao động nhà và hơn 8 ngày công lao động thuê. Lao động nhà đóng góp gần 22% trong cơ cấu chi phí trong khi đó lao động thuê chiếm trên 3%. Tỷ lệ này là do giá lao động ở nông thôn ngày càng tăng cho nên nông dân có xu hướng giảm bớt lao động thuê, việc nào các thành viên trong nông hộ làm được thì không thuê mướn. Lao động thuê mướn ở đây ít và chủ yếu là thuê để phun thuốc sâu, vì đây là công việc hết sức nguy hiểm vì độc hại cho nên để đảm bảo sức khỏe cho gia đình các nông hộ phải thuê và thuê với đơn giá cao.

2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất lúa

Những yếu tố liên quan đến trình độ học vấn và diện tích đất canh tác ảnh hưởng đến lợi nhuận theo chiều thuận và yếu tố vốn sản xuất cũng ảnh hưởng đến lợi nhuận nhưng ảnh hưởng theo chiều nghịch.

Các yếu tố đầu vào được đầu tư sản xuất lúa của các nông hộ bao gồm lượng giống, lượng phân, chi phí thuốc sâu, ngày công lao động nhà, ngày công lao động thuê, chi phí cơ giới hóa. Các yếu tố này được dự đoán sẽ ảnh hưởng đến yếu tố đầu ra đó là sản lượng lúa theo từng vụ, việc sử dụng mô hình Cobb-Douglass cho chúng ta biết mức độ tác động của các yếu tố này đến sản lượng lúa như thế nào với phương trình:

z6741164980513_66d3dad1e05f197cdeea091f1c2b5040

Sau đây chúng ta sẽ xem xét điển hình mô hình đối với Vụ Đông Xuân

z6741164980636_29f9d9618fe12fee537d560dda9d48c3

Kết quả ước lượng các hệ số vụ lúa Đông Xuân được trình bày bảng trên cho thấy:

- Hệ số R2: 0,83, tức sự biến động của biến phụ thuộc Y (sản lượng lúa vụ Đông Xuân) chịu tác động bởi 83% các biến độc lập được đưa vào mô hình bao gồm: lượng giống, lượng phân, chi phí thuốc trừ sâu, số ngày công lao động nhà, số ngày công lao động thuê và chi phí cơ giới hóa. Thông qua P-value với mức ý nghĩa α=5% cho thấy giả thuyết H0 bị bác bỏ và chấp nhận giả thuyết H1, tức có sự ảnh hưởng của các yếu tố đầu vào tới sản lượng đầu ra ở vụ Đông Xuân.

Trên đây là hàm sản xuất được chạy theo hai dạng OLS và MLE.

- Lượng giống: Hệ số lượng giống trong cả hai mô hình đều có ý nghĩa 5% tức khi cố định các yếu tố đầu vào khác, tăng 1% lượng giống gieo sạ thì sản lượng lúa sản xuất ra vụ Đông Xuân tăng thêm 0,3140% ở mô hình MLE và 0,4037% ở đường OLS. Hệ số này nói lên, những hộ sản xuất nằm trên đường sản xuất trung bình OLS thì đầu tư nhiều giống hơn các hộ sản xuất giỏi nằm trên đường MLE. Trong cả hai đường OLS và MLE thì yếu tố giống chính là yếu tố tác động lớn nhất đến sản lượng của vụ mùa Đông Xuân. Hiện nay do dịch bệnh nên nông dân hạn chế việc gieo sạ lúa dầy, chủ động sạ thưa để giảm sự phát sinh và lây lan nhiều sâu bệnh, đây là một sự cân nhắc lựa chọn, vì việc phát sinh dịch bệnh nông dân không thể biết chính xác hết mà chỉ có thể dự báo cho nên thay vì chọn giải pháp sạ dày để tăng năng suất thì nông dân chọn giải pháp an toàn là sạ thưa hơn nhưng đảm bảo ít sâu bệnh, đảm bảo sản lượng đầu ra và chất lượng hạt lúa.

- Lượng phân bón: Hệ số lượng phân trong hai mô hình có ý nghĩa 5%, tương tự như trên, khi ta cố định các yếu tố đầu vào còn lại thì lượng phân tăng thêm 1% thì sản lượng tăng thêm 0,2688% trong đường MLE và 0,2934% trên đường OLS và là tác động lớn thứ hai sau yếu tố giống đến hiệu quả sản xuất. Như vậy các hộ sản xuất giỏi chỉ cần đầu tư ít giống hơn và đầu tư ít phân bón hơn thì cũng mang lại sản lượng cao hơn so với các hộ sản xuất trung bình. Một thực tế là giá cả phân ngày càng cao, cho nên theo kinh nghiệm của những vụ trước và để tiết kiệm chi phí nên các việc sử dụng hạn chế lượng phân cũng khá phù hợp. Nếu như trước đây nông dân thường tuân theo tập quán canh tác của mình để bón phân dẫn đến lượng phân thừa, không mang lại hiệu quả cho cây lúa thì ngày nay do tiếp cận nền kinh tế thị trường cũng như khoa học kỹ thuật cho nên nông dân biết tiết kiệm hơn chi phí mà vẫn mang về lợi nhuận.

- Chi phí thuốc trừ sâu, BVTV: Tương tự như lượng phân bón thì chi phí thuốc trừ sâu, thuốc dưỡng mà nông dân sử dụng trong vụ  này cũng có ý nghĩa ở mức 5% tuy nhiên chi phí thuốc mà nông dân đầu tư thêm 1% trong điều kiện cố định các yếu tố đầu vào còn lại thì chỉ giúp sản lượng tăng thêm 0,1270% trong mô hình MLE và 0,1153% trong mô hình OLS. Hệ số này cho thấy các hộ sản xuất giỏi đầu tư nhiều thuốc trừ sâu, mà đặc biệt là thuốc dưỡng để chăm sóc cây lúa. Điều này dễ hiểu vì giá cả thuốc trừ sâu thì tương đối cao nhưng nếu đồng ruộng phát bệnh thì nông dân phải đầu tư, phải chăm sóc để đảm bảo đầu ra.

- Chi phí cơ giới hóa: hệ số này có ý nghĩa ở mức 5% nói lên trong trường hợp cố định các yếu tố đầu vào, khi tăng chi phí cơ giới lên 1% thì sản lượng tăng lên 0,3375% trong mô hình MLE và 0,2527% trong mô hình OLS, có tác động lớn thứ ba sau giống, phân. Tương tự như yếu tố thuốc trừ sâu thì yếu tố cơ giới hóa của các hộ sản xuất giỏi cũng cao hơn các hộ sản xuất trung bình. Chi phí này bao gồm chi phí cày, trục, chuẩn bị đất, chi phí tưới tiêu, đầu tư máy móc ứng dụng khoa học kỹ thuật....Nếu nông dân chú trọng hơn tới việc cơ giới hóa trong nông nghiệp thì sẽ mang lại hiệu quả cao hơn.

Tóm lại, từ mô hình hàm sản xuất vụ Đông Xuân có thể kết luận rằng các nông hộ này có khả năng tăng sản lượng nếu có sự đầu tư hợp lý các yếu tố đầu vào mà đặc biệt là ứng dụng khoa học kỹ thuật. Kết hợp với việc phân tích hiệu quả kinh tế ở phần trên ta có thể nhận định rằng nông dân Hậu Giang đã có những biện pháp sản xuất hiệu quả, tiết kiệm các yếu tố đầu vào để đạt hiệu quả của đầu ra. Tuy nhiên, nếu theo kinh nghiệm sản xuất bao đời để lại: "nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống" thì nông dân huyện Long Mỹ lại chú trọng nhiều nhất đến yếu tố giống, vai trò của yếu tố phân cũng không kém phần quan trọng, và kế đó là các hoạt động cơ giới, hay có thể nói "nhất giống, nhì phân...".

3. Định hướng và giải pháp

Qua nghiên cứu khảo sát những thuận lợi, khó khăn và giải pháp đề xuất từ phía người sản xuất, kết hợp với tình hình sản xuất lúa cũng như quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Những thuận lợi, khó khăn của nông hộ cần được ghi nhận và đánh giá từ đó đề xuất một số giải pháp cần thiết để phát triển sản xuất lúa ở địa phương cũng như trong khu vực trong thời gian tới như sau:

3.1. Những thuận lợi của nông hộ trong sản xuất lúa

- Bên cạnh việc nông dân tự sản xuất lúa giống và trao đổi, trong đó có một số hộ chuyên sản xuất lúa giống thì trên địa bàn các xã có các tổ chức sản xuất giống phục vụ sản xuất lúa vì thế người sản xuất chủ động được nguồn giống (đối với lúa cao sản). Đối với lúa GAP, do được bao tiêu sản phẩm nên nguồn giống chủ yếu do công ty cung cấp đúng yêu cầu, người nông dân không phải lo lắng về nguồn cung cấp giống.

- Giao thông thủy lợi, hệ thống kênh mương thủy lợi nội đồng tương đối hoàn chỉnh, đặc biệt là hệ thống đê bao ngăn lũ khá hoàn thiện đảm bảo tốt cho việc canh tác lúa. Bên cạnh đó, giao thông nông thôn khá tốt phục vụ cho việc đi lại trong sản xuất cũng như vận chuyển vật tư và tiêu thụ hàng hoá.

- Việc cơ giới hoá trong sản xuất lúa phát triển khá mạnh, đã góp phần trong việc nâng cao hiệu quả trong thu hoạch, giảm chi phí và công lao động, hạn chế việc thiếu lao động theo mùa vụ.

- Nông dân có thể sản xuất lúa đạt năng suất cao; Tiêu thụ lúa dễ dàng do có nhiều thương lái đến mua.

3.2. Những khó khăn của nông hộ trong sản xuất lúa

- Trong những năm qua, thiên tai dịch bệnh xuất hiện thường xuyên, hệ thống thủy lợi ở một số nơi chưa hoàn chỉnh, tình hình hạn hán kéo dài ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất lúa của nông hộ.

- Tình trạng mất mùa, rớt giá - giá lúa bấp bênh khi thu hoạch rộ làm cho lợi nhuận của nông dân bị giảm sút, thậm chí có vụ không có lợi nhuận và lỗ.

- Giá vật tư nông nghiệp tăng cao do các cửa hàng và đại lý quyết định giá. Thiếu vốn sản xuất, thường phải mua chịu vật tư (chịu lãi suất) trả vào cuối vụ và do áp lực phải chi trả để mua vật tư tái sản xuất bắt buộc nông hộ phải bán lúa ngay khi thu hoạch nên thường bị thương lái ép giá. Một số nông hộ có trình độ học vấn thấp và thiếu thông tin thị trường nên mua nhầm hàng giả, chất lượng kém.

- Đối với nông hộ sản xuất lúa GAP và sản xuất lúa cao sản thường sản xuất theo tập quán thói quen, không đúng qui trình kỹ thuật, có thói quen sạ dày, sử dụng nhiều thuốc BVTV.

- Sử dụng giống lúa kém chất lượng và đã bị thoái hóa nên năng suất không cao.

- Khó tiếp thu khoa học kỹ thuật, do trình độ người trồng lúa còn thấp và không đồng đều khó áp dụng khoa học kỹ thuật.

- Qui mô sản xuất nhỏ, diện tích manh múng, không liền kề nên việc kiểm soát dịch bệnh bị hạn chế.

- Không có thói quen theo dõi chi phí đầu tư và hiệu quả sản xuất

- Không có khả năng tích luỹ để tái sản xuất

- Sử dụng vốn vay không đúng mục đích và không hiệu quả.

3.3. Những định hướng giải pháp được lựa chọn để phát triển sản xuất lúa trong thời gian tới

Trên cơ sở đánh giá những thuận lợi, khó khăn của nông hộ trong tham gia sản xuất lúa, một số giải pháp được đề xuất như sau:

- Cơ quan chức năng cung cấp thông tin về tình hình dịch bệnh và đưa ra lịch thời vụ để né rầy

- Phối hợp các cơ quan chức năng tăng cường công tác tuyên truyền và tập huấn kỹ thuật cho nông dân. Tạo những điểm trình diễn giống và Hội nông dân làm đầu mối phân phối giống tốt với giá ưu đãi.

- Tăng cường kiểm tra các đại lý VTNN, kiểm soát hàng giả, kém chất lượng

- Quy hoạch vùng sản xuất lúa chất lượng, sản xuất đồng loạt, quy mô lớn nhằm giảm chi phí sản xuất và có hợp đồng bao tiêu

- Có cơ chế hỗ trợ để nhiều doanh nghiệp gia nhập ngành, ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm để nông dân yên tâm sản xuất.

- Hoàn thiện hệ thống đê bao và đầu tư các trạm bơm điện để giảm chi phí sản xuất ở khâu bơm tưới vào mùa khô.

- Áp dụng khoa học kỹ thuật, sử dụng giống xác nhận, chất lượng, phù hợp với đất đai và thời vụ cũng như nhu cầu của thị trường.

- Khuyến cáo, tuyên truyền vận động nhằm nâng cao nhận thức của bà con nông dân thay đổi tập quán sản xuất, sử dụng giống lúa chất lượng cao. Đẩy mạnh công tác chuyển giao khoa học kỹ thuật và cơ giới hoá nông nghiệp

- Đa dạng hoá hình thức hoạt động của hợp tác xã và tổ hợp tác thông qua các mô hình trồng trọt chăn nuôi thuỷ sản kết hợp, nhằm tăng hiệu quả kinh tế/1 đơn vị diện tích.

- Ngân hàng cần có cơ chế lãi suất thấp riêng cho nông dân sản xuất lúa.

Tài liệu tham khảo:

- Thoa, N. T. K. (2019). Phân tích hiệu quả kinh tế của nông hộ trồng lúa liên kết với doanh nghiệp trong và ngoài hợp tác xã ở đồng bằng sông Cửu Long. Luận văn tốt nghiệp cao học, ngành Kinh tế Nông nghiệp, Trường Đại học Cần Thơ.

- Thoa, N. T. K. (2019). Phân tích hiệu quả kinh tế của nông hộ trồng lúa liên kết với doanh nghiệp trong và ngoài hợp tác xã ở đồng bằng sông Cửu Long. Luận văn tốt nghiệp cao học, ngành Kinh tế Nông nghiệp, Trường Đại học Cần Thơ.

- Vũ Anh Pháp, Nguyễn Hoàng Khải (2020). “Hiệu quả sản xuất và tiêu thụ lúa gạo theo tiêu chuẩn Vietgap”.

- PGS.TS. Trần Nguyễn Ngọc Anh Thư (2021), Kinh tế vi mô

- Các tạp chí, sách báo, web site....

Nguyễn Thị Vui

Trường Cao Đẳng Cộng Đồng Hậu Giang

Tạp chí in số tháng 6/2025

Bạn đang đọc bài viết Phân tích hiệu quả sản xuất lúa trong phát triển kinh tế tại tỉnh Hậu Giang tại chuyên mục Bài báo khoa học của Tạp chí Tài chính doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác:

email: [email protected], hotline: 086 508 6899

Tin liên quan

x