Phát huy vai trò động lực của kinh tế tư nhân: Tiếp cận từ Nghị quyết 68-NQ/TW
TCDN - Bài viết tập trung phân tích cơ sở lý luận, nội dung cốt lõi của Nghị quyết 68, thực trạng phát triển kinh tế tư nhân giai đoạn 2020 - 2024, đánh giá cơ hội và thách thức đối với kinh tế tư nhân Việt Nam, đồng thời đề xuất giải pháp triển khai hiệu quả Nghị quyết trong bối cảnh mới.
Tóm tắt
Trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế, khu vực kinh tế tư nhân đã trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế Việt Nam, đóng góp lớn vào tăng trưởng GDP, thu ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho lao động, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và sự năng động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Dù vậy, khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn hạn chế về quy mô, năng lực cạnh tranh, trình độ công nghệ và quản trị, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh công nghiệp hóa và hội nhập sâu rộng. Nhằm tạo đột phá, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân, được xác định là một trong bốn nghị quyết trụ cột để Việt Nam cất cánh trong giai đoạn mới. Bài viết tập trung phân tích cơ sở lý luận, nội dung cốt lõi của Nghị quyết 68, thực trạng phát triển kinh tế tư nhân giai đoạn 2020 - 2024, đánh giá cơ hội và thách thức đối với kinh tế tư nhân Việt Nam, đồng thời đề xuất giải pháp triển khai hiệu quả Nghị quyết trong bối cảnh mới.
1. Cơ sơ lý luận về Kinh tế tư nhân và vai trò của kinh tế tư nhân
1.1. Khái niệm kinh tế tư nhân
Xét về mặt kinh tế học thì kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế thuộc cơ cấu kinh tế của một quốc gia, được hình thành và phát triển dựa trên sự sở hữu của tư nhân về tư liệu sản xuất cũng như lợi ích cá nhân.
Theo Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14 ngày 17/6/2020, kinh tế tư nhân bao gồm doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần không có vốn nhà nước chi phối và hộ kinh doanh cá thể.
Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế coi kinh tế tư nhân là toàn bộ các hoạt động sản xuất, dịch vụ và đầu tư không thuộc sở hữu hoặc kiểm soát của Nhà nước, bao gồm cả doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp lớn, tập đoàn đa quốc gia cũng như khu vực phi chính thức.
Như vậy, hiện nay khái niệm kinh tế tư nhân vẫn còn nhiều quan điểm và cách diễn đạt khác nhau, song đều thống nhất rằng: Kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, bao gồm các loại hình doanh nghiệp và hộ kinh doanh do tư nhân làm chủ, hoạt động theo cơ chế thị trường và đóng vai trò động lực trong phát triển kinh tế.
1.2. Quan điểm của Đảng về vai trò của kinh tế tư nhân
Quan điểm của Đảng về về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân có quá trình hình thành và phát triển lâu dài, được bổ sung và hoàn thiện qua mỗi giai đoạn phát triển kinh tế đất nước.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa VI, Đảng ta đã khẳng định: Kinh tế tư nhân được phát triển không hạn chế địa bàn, quy mô, ngành nghề mà pháp luật không cấm.
Bước phát triển mới trong quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân thể hiện trong Văn kiện Đại hội IX (2001), khi Đảng ta khẳng định kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế có vị trí quan trọng lâu dài trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX (năm 2002) tiếp tục khẳng định: Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN.
Tại Đại hội X (4/2006) của Đảng, kinh tế tư nhân chính thức được xác nhận là một thành phần kinh tế trên cơ sở hợp nhất hai thành phần kinh tế: cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân và được xác định rõ: “Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế” [2, tr83].
Đại hội XI (2011) vai trò động lực kinh tế tư nhân tiếp tục được phát triển. Đến Đại hội XII (2016), sự phát triển mới về nhận thức của Đảng đối với kinh tế tư nhân chính thức xác nhận: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế”, lần đầu tiên khái niệm tập đoàn kinh tế tư nhân xuất hiện [3, tr107-108].
Văn kiện Đại hội XIII (năm 2021) xác định phát triển khu vực kinh tế tư nhân để thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế là một điểm nhấn: “Xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân; hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động. Khuyến khích hình thành, phát triển những tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, tiềm lực mạnh, có khả năng cạnh tranh khu vực, quốc tế. Phấn đấu đến năm 2030, có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp với tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP đạt 60% - 65%”[4, tr. 240].
2. Nội dung cốt lõi về phát triển kinh tế tư nhân trong Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị
Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị khẳng định kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc dân, giữ vai trò trung tâm trong thúc đẩy tăng trưởng, đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế. Cùng với kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, khu vực tư nhân là nòng cốt xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng và hiệu quả. Nghị quyết đặt mục tiêu xây dựng khu vực kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả và có năng lực cạnh tranh toàn cầu, gắn với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế xanh, tuần hoàn.
Nghị quyết số 68-NQ/TW xác định mục tiêu đến năm 2030, kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, tiên phong trong khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Cụ thể, phấn đấu có 2 triệu doanh nghiệp hoạt động (20 doanh nghiệp/1.000 dân), hình thành ít nhất 20 doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Khu vực này đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 10 - 12%/năm, đóng góp 55 - 58% GDP, 35 - 40% ngân sách nhà nước, tạo việc làm cho 84 - 85% lao động, năng suất lao động tăng 8,5 - 9,5%/năm; năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số thuộc nhóm 3 ASEAN, nhóm 5 châu Á. Tầm nhìn đến năm 2045, kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững, tham gia sâu vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu, có năng lực cạnh tranh cao, với ít nhất 3 triệu doanh nghiệp, đóng góp trên 60% GDP. Nghị quyết cụ thể hóa các giải pháp để phát huy tối đa vai trò, đưa kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng nhất của nền kinh tế.
Nghị quyết 68 thể hiện bước tiến đột phá trong tư duy phát triển kinh tế của Đảng, chuyển từ thừa nhận sang khẳng định vai trò trung tâm của kinh tế tư nhân: kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, là lực lượng tiên phong trong phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo.
3. Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam giai đoạn 2020 - 2024
3.1. Quy mô và tốc độ tăng trưởng

Số liệu bảng 1 cho thấy tổng số doanh nghiệp đang hoạt động và số doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam đều tăng liên tục trong giai đoạn 2020 - 2024. Tổng số doanh nghiệp đang hoạt động tăng từ 684.264 doanh nghiệp năm 2020 lên 940.078 doanh nghiệp năm 2024, trong khi số doanh nghiệp tư nhân tăng từ 660.055 lên 910.000 doanh nghiệp. Năm 2021, mặc dù dịch COVID-19 tác động nặng nề, số doanh nghiệp tư nhân vẫn tăng 5,2% đạt 694.181, thể hiện khả năng thích ứng nhất định. Sang năm 2022 số lượng doanh nghiệp tư nhân tăng mạnh đặt 710.644. Đáng chú ý, năm 2023 ghi nhận mức tăng trưởng bức phá nhất, khi tổng số doanh nghiệp đạt 892.000 tăng hơn 25% so với năm trước, cho thấy sự gia tăng nhanh chóng về quy mô hoạt động của doanh nghiệp tư nhân, phản ánh quá trình phục hồi mạnh sau đại dịch COVID-19 cùng với các chính sách hỗ trợ, khuyến khích hoạt động sản xuất kinh doanh và cải thiện môi trường đầu tư. Đến năm 2024, số doanh nghiệp tư nhân đạt 910.000 tăng 2% so với năm trước, cho thấy xu hướng mở rộng vẫn tiếp tục nhưng tốc độ có phần chậm lại so với giai đoạn phục hồi sau dịch. Cả giai đoạn 2020 - 2024, tổng số doanh nghiệp tư nhân tăng thêm khoảng 250.000, bình quân mỗi năm tăng hơn 8%. Tỷ lệ doanh nghiệp nhỏ và vừa luôn duy trì trên 96% và có xu hướng tăng dần, phản ánh thực trạng quy mô còn hạn chế, vốn và năng lực cạnh tranh chưa cao. Tốc độ tăng trưởng của khu vực tư nhân gần như song hành với tổng thể, chứng tỏ phần lớn sự mở rộng của khu vực doanh nghiệp đến từ khối tư nhân.
Sự thay đổi quy mô doanh nghiệp tư nhân cũng phản ánh qua dòng doanh nghiệp gia nhập và rời khỏi thị trường. Năm 2020, có 178.996 doanh nghiệp thành lập mới và quay lại hoạt động, trong khi 101.719 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường. Năm 2021, do tác động của đại dịch, số doanh nghiệp gia nhập giảm còn 159.953, trong khi số rời thị trường tăng lên 116.800. Tuy nhiên, từ năm 2022 trở đi, bức tranh dần khởi sắc: số doanh nghiệp gia nhập liên tục tăng, đạt 208.386 vào 2022, 217.706 vào 2023 và 233.400 vào 2024. Song song với đó, số doanh nghiệp rút lui cũng tăng nhanh, từ 143.000 (2022) lên 172.600 (2023) và gần 197.861 (2024). Điều này cho thấy tốc độ ra nhập thị trường cao nhưng tỷ lệ đào thải cũng mạnh, phản ánh tính sàng lọc và sức ép cạnh tranh trong môi trường kinh doanh.
Nhìn chung, giai đoạn 2020 - 2024 sự tăng trưởng liên tục về số lượng doanh nghiệp đi cùng với tỷ lệ đóng góp ngày càng lớn vào GDP cho thấy không chỉ có sự gia tăng về mặt số lượng, mà còn là sự nâng cao về chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, thể hiện sức sống và khả năng phục hồi mạnh sau khủng hoảng dịch bệnh. Đây chính là minh chứng cho vai trò trụ cột của khu vực kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế - xã hội.
3.2. Đóng góp vào GDP và ngân sách

Giai đoạn 2020 - 2024, khu vực kinh tế tư nhân không chỉ mở rộng mạnh mẽ về số lượng doanh nghiệp mà còn có bước tiến quan trọng về đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, tỷ trọng GDP có sự biến động khá rõ nét. Kết quả phân tích cho thấy, năm 2020 đạt mức 42,6%, sang năm 2021 tăng mạnh lên 46,4%, phản ánh sự phục hồi kinh tế sau những tác động ban đầu của dịch Covid-19. Tuy nhiên, đến năm 2022, chỉ tiêu này giảm xuống còn 42,5%, cho thấy những khó khăn vẫn còn kéo dài, có thể do ảnh hưởng của gián đoạn chuỗi cung ứng và sức cầu suy yếu. Bước sang năm 2023, tỷ trọng GDP nhích nhẹ lên 43,0%, thể hiện tín hiệu ổn định trở lại dù chưa thật sự bứt phá. Đặc biệt, năm 2024 ghi nhận sự tăng trưởng vượt trội khi đạt mức 50,0%, cao nhất trong cả giai đoạn, khẳng định sự phục hồi mạnh mẽ và hiệu quả của các chính sách kinh tế.
Khu vực tư nhân cũng là nơi tạo việc làm chủ yếu cho xã hội, đóng góp đáng kể vào công cuộc xóa đói giảm nghèo và tăng thu nhập cho người lao động. Tỷ lệ lao động trong khu vực này luôn duy trì ở mức 82% - 85% tổng số lao động. Tuy nhiên, chất lượng việc làm trong khu vực này còn thấp, chưa ổn định và chưa được đảm bảo đầy đủ về mặt phúc lợi, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp siêu nhỏ và hộ kinh doanh cá thể. Năng lực đào tạo, duy trì và phát triển kỹ năng cho người lao động cũng còn yếu.
Như vậy, có thể thấy khu vực kinh tế tư nhân đã chứng minh được vai trò chủ đạo và ngày càng nâng cao hiệu suất kinh doanh trong giai đoạn 2020 - 2024, nhưng vẫn cần tiếp tục được hỗ trợ về đổi mới công nghệ, nâng cao quản trị, phát triển doanh nghiệp quy mô lớn nhằm bảo đảm tăng trưởng bền vững và nâng cao sức cạnh tranh quốc tế.
3.3. Đổi mới và hội nhập đáp ứng tiêu chuẩn phát triển bền vững
Trước xu thế toàn cầu hướng tới phát triển bền vững và đạo đức doanh nghiệp, việc áp dụng ESG (Môi trường, Xã hội và Quản trị) được kỳ vọng thúc đẩy doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực tư nhân. Theo Báo cáo “Mức độ sẵn sàng ESG” của PwC Việt Nam (2023), đến năm 2024, các doanh nghiệp tư nhân đã quan tâm nhiều hơn đến ESG nhưng mức độ sẵn sàng vẫn còn thấp. Mặc dù hơn 90% doanh nghiệp niêm yết thể hiện cam kết, chỉ khoảng một phần ba xây dựng kế hoạch cụ thể và chưa đến một nửa thiết lập cơ cấu quản trị bền vững rõ ràng. Đáng chú ý, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa thiếu kiến thức, nguồn lực và coi ESG là chi phí hơn là cơ hội, dẫn đến việc thực thi còn hạn chế. Tuy nhiên, áp lực từ nhà đầu tư, khách hàng quốc tế và chuỗi cung ứng đang trở thành động lực thúc đẩy thay đổi.
Khu vực tư nhân Việt Nam hiện đang mở rộng quy mô và đầu tư mạnh vào công nghệ cao, thương mại điện tử, dịch vụ hiện đại. Nhiều doanh nghiệp tư nhân lớn như Vingroup, Masan, Sun Group, Vietjet, Thaco, TH,... đã vươn tầm khu vực và thế giới, đóng góp vào việc nâng tầm thương hiệu quốc gia. Tuy nhiên, sự tham gia vào chuyển đổi xanh vẫn còn hạn chế, chủ yếu tập trung ở một số ít doanh nghiệp lớn. Việc áp dụng sản xuất sạch hơn, các tiêu chuẩn môi trường toàn cầu, hay tham gia vào nền kinh tế tuần hoàn vẫn còn rất hạn chế, chủ yếu tập trung ở một số ít doanh nghiệp lớn. Phần lớn doanh nghiệp nhỏ chưa có đủ động lực, vốn và nhận thức để triển khai mô hình sản xuất bền vững. Do đó, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ đồng bộ nhằm thúc đẩy khu vực tư nhân tham gia sâu hơn vào quá trình chuyển đổi xanh, nâng cao năng lực cạnh tranh cho khu vực tư nhân trong tiến trình phát triển kinh tế xanh và bền vững.
4. Cơ hội và thách thức trong bối cảnh mới
4.1. Cơ hội
Trong bối cảnh hội nhập và đổi mới, kinh tế tư nhân Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, bứt phá để trở thành một trong những trụ cột quan trọng thúc đẩy tăng trưởng bền vững.
Trong nước, môi trường kinh doanh ngày càng thuận lợi hơn khi Nhà nước chú trọng hoàn thiện thể chế, cải cách thủ tục hành chính, khuyến khích khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo và phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đảng và Nhà nước đã khẳng định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế, được cụ thể hóa qua các nghị quyết, chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp, Nghị quyết số 68-NQ/TW (04/5/2025) của Bộ Chính trị khẳng định phát triển kinh tế tư nhân là một trong bốn trụ cột đột phá, tạo cơ sở chính trị và pháp lý mạnh mẽ để khu vực này vươn lên thành động lực quan trọng nhất của nền kinh tế. Nguồn nhân lực dồi dào, lực lượng lao động trẻ, năng động, có khả năng thích ứng nhanh với công nghệ mới là lợi thế cho doanh nghiệp tư nhân phát triển. Đồng thời, sự gia tăng nhanh chóng của tầng lớp trung lưu cùng nhu cầu tiêu dùng đa dạng cũng tạo động lực lớn cho các doanh nghiệp tư nhân mở rộng quy mô và lĩnh vực hoạt động.
Về hội nhập quốc tế, việc tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (CPTPP, EVFTA, RCEP…) mở ra cơ hội tiếp cận thị trường toàn cầu, hưởng ưu đãi thuế quan và tiếp cận các chuẩn mực thương mại hiện đại. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cùng với xu thế chuyển đổi số, tăng trưởng xanh và kinh tế tuần hoàn tạo điều kiện cho doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
4.2. Thách thức
Khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức trong quá trình phát triển và hội nhập. Áp lực cạnh tranh ngày càng gia tăng khi doanh nghiệp phải đối đầu không chỉ với các đối thủ trong nước mà còn với tập đoàn đa quốc gia có tiềm lực mạnh về vốn, công nghệ và thương hiệu. Cùng với đó, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đặt ra yêu cầu đổi mới công nghệ, chuyển đổi số và sản xuất xanh, trong khi phần lớn doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ và vừa, hạn chế về vốn, nhân lực và năng lực quản trị, liên kết ngành và chuỗi giá trị yếu, chưa tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Hiệu quả sản xuất kinh doanh và năng suất lao động còn thấp, khả năng chống chịu trước biến động kinh tế hạn chế. Việc tiếp cận các nguồn lực như tín dụng, đất đai và nhân lực chất lượng cao vẫn gặp khó khăn do rào cản thể chế và thủ tục hành chính. Ngoài ra, hệ thống chính sách còn chồng chéo, thiếu ổn định, cùng với sự tồn tại của khu vực kinh tế phi chính thức lớn đã ảnh hưởng đến tính minh bạch và công bằng của thị trường. Những hạn chế này là rào cản lớn đối với quá trình phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh của khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng.
5. Giải pháp phát huy vai động lực cho tăng trưởng của kinh tế tư nhân theo tinh thần Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị
Trên cơ sở nội dung phân tích thực trạng phát triển kinh tế tư nhân và đánh giá cơ hội, thách thức trong thời gian tới, hệ thống giải pháp được đề xuất theo hướng toàn diện - khả thi - phù hợp với thực tiễn kinh tế Việt Nam nhằm hiện thực hóa mục tiêu phát triển kinh tế tư nhân theo tinh thần Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Một là, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện khung thể chế, chính sách và môi trường kinh tế, bảo đảm tính minh bạch, ổn định và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Cải cách hành chính phải được đẩy mạnh nhằm đơn giản hóa thủ tục, giảm chi phí và nâng cao hiệu quả quản lý. Chính phủ cần chú trọng hỗ trợ vốn ưu đãi, hoàn thiện cơ chế tín dụng, phát triển hệ thống tài chính đa dạng. Đồng thời, thúc đẩy hợp tác và chuyển giao công nghệ, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, ứng dụng công nghệ hiện đại, mô hình sản xuất thông minh và sản xuất sạch, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, mở rộng thương mại điện tử và xây dựng thương hiệu quốc gia. Bên cạnh đó, cần chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đội ngũ doanh nhân có tầm nhìn chiến lược, năng lực hội nhập và đạo đức nghề nghiệp.
Hai là, doanh nghiệp tư nhân cần minh bạch hóa thông tin, chủ động áp dụng tiêu chí ESG để phát triển bền vững, nâng cao uy tín và giảm rủi ro. Phát triển văn hóa doanh nghiệp Việt Nam hiện đại, nhân văn, lấy uy tín, chất lượng, và cống hiến cho cộng đồng làm nền tảng. Song song, cần nâng cao năng lực quản trị theo chuẩn quốc tế, chủ động đổi mới công nghệ, sản xuất xanh, tăng cường liên kết trong chuỗi giá trị, hợp tác với FDI và doanh nghiệp nhà nước.
Ba là, các hiệp hội ngành nghề và tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp cần phát huy vai trò cầu nối giữa Nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp, phản ánh kịp thời khó khăn, vướng mắc của khu vực tư nhân và đề xuất chính sách phù hợp. Các hiệp hội cần đẩy mạnh đào tạo, tư vấn, xúc tiến thương mại, hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận công nghệ, mở rộng thị trường và nâng cao năng lực cạnh tranh. Sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước - doanh nghiệp - tổ chức xã hội sẽ tạo sức mạnh tổng hợp, thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, đóng góp tích cực vào mục tiêu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập sâu rộng theo tinh thần Nghị quyết 68-NQ/TW.
Kết luận
Kinh tế tư nhân đã và đang trở thành trụ cột quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị khẳng định khu vực này là một trong những động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc dân. Đây là bước ngoặt trong tư duy phát triển, tạo hành lang chính trị và pháp lý mạnh mẽ để khu vực này thực sự trở thành động lực quan trọng nhất của nền kinh tế. Để hiện thực hóa mục tiêu này, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, hỗ trợ đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực quản trị và phát triển bền vững. Sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội nghề nghiệp sẽ là nhân tố quyết định đưa kinh tế tư nhân trở thành động lực trung tâm của nền kinh tế Việt Nam hiện đại, độc lập và hội nhập.
Tài liệu tham khảo
[1] Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2025), Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Nxb Chính trị quốc, Hà Nội.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Nxb Chính trị quốc, Hà Nội.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I. Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[5] Hoàng Thu Trang (2025), “Nghị quyết 68: Bước ngoặt lịch sử cho kinh tế tư nhân Việt Nam”, truy cập từ https://baochinhphu.vn/nghi-quyet-68-nq-tw-buoc-ngoat-lich-su-cho-kinh-te-tu-nhan-viet-nam-10225050823092803.htm
[6] PwC Việt Nam (2023), “Báo cáo Mức độ sẵn sàng ESG của doanh nghiệp Việt Nam năm 2023,” PricewaterhouseCoopers Vietnam
[7] Trung Hưng (2025), “Nghị quyết 68 - Khơi thông động lực phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam” truy cập từ https://nhandan.vn/nghi-quyet-68-khoi-thong-dong-luc-phat-trien-kinh-te-tu-nhan-viet-nam-post879085.html
[8] Tổng cục Thống kê (2020 - 2024), truy cập từ https://www.gso.gov.vn/
ThS. Võ Thị Kiều Trinh
Phân hiệu trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh tại Gia Lai
ThS. Nguyễn Quốc Trịnh
Trường THPT Pleiku tỉnh Gia Lai
Tạp chí in số tháng 10/2025
email: [email protected], hotline: 086 508 6899
Tag:












