Phát triển chuỗi cung ứng để cải thiện mạng lưới thương mại cho nông sản

30/03/2023, 14:43
báo nói -

TCDN - Phát triển chuỗi cung ứng (CM) và cải thiện mạng lưới thương mại (TN) cho nông sản (TN-ap) được nước muốn thông qua xuất khẩu nông sản để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa. Ở Việt Nam, dù đã đạt nhiều thành tựu, nhưng các hoạt động này chưa được như kỳ vọng, còn nhiều hạn chế, yếu kém bởi nhiều nguyên nhân.

6-1

TÓM TẮT:

Phát triển chuỗi cung ứng (CM) và cải thiện mạng lưới thương mại (TN) cho nông sản (TN-ap) được nước muốn thông qua xuất khẩu nông sản để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa bắt kịp quan tâm. Ở Việt Nam, dù đã đạt nhiều thành tựu, nhưng các hoạt động này chưa được như kỳ vọng, còn nhiều hạn chế, yếu kém bởi nhiều nguyên nhân.

Để đáp ứng đòi hỏi thực tiễn, cần tiến hành phân vùng kinh tế, chỉ ra cơ cấu sản phẩm, phát triển các CM toàn cầu để cải thiện TN quốc tế cho nông sản. Các vùng dùng khả năng còn lại, phát triển chuyên canh cấp vùng, cùng CM tầm quốc gia để cải thiện TN-ap giữa các vùng. Từng vùng triển khai các CM phi nông sản, cả của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), xác định tổng cầu và địa chỉ, dùng khả năng còn lại, phát triển sản xuất để cải thiện TN-ap trong vùng. Đẩy mạnh lai tạo giống, đổi mới kinh doanh; hoàn thiện thể chế, xử lý vi phạm thương mại, hình thành TN-ap phát triển...

1. Cơ sở lý thuyết

Đã có nhiều nghiên cứu về CM, về TN; song nghiên cứu về CM nông sản, về TNap còn ít. Trong đó, nghiên cứu về phát triển CM nhằm cải thiện TN-ap còn là khoảng trống nghiên cứu. Song, nếu không cải thiện TN-ap, thì nông nghiệp Việt vẫn phát triển chậm chạp, rời rạc, không bền vững. Ít giúp cải thiện chất lượng tăng trưởng, làm chậm việc cải thiện đời sống nông dân; làm lãng phí lợi thế cung cấp nông sản, cũng như cơ hội khai thác EVFTA của nước ta. Tính thời sự và hữu ích đòi hỏi đề tài này cần được nghiên cứu sớm và sâu. Mặt khác, là chuyên đề phân tích kinh tế chưa được nghiên cứu, để thực hiện, trước tiên cần xây dựng khung lý thuyết.

Để có cơ sở vững chắc, đảm bảo cho các CM được phát triển khoa học, TN-ap được cải thiện phù hợp, cần chắt lọc và hệ thống hóa kiến thức cần thiết từ kinh tế vĩ mô, kinh tế vi mô, kinh tế phát triển, quản trị học... Để giải pháp đưa ra sát thực, có thể chủ động dẫn dắt hoạt động thực tiễn, cần dựa vào hiện trạng, đặc thù, tiềm lực, định hướng phát triển CM và TN-ap của Nhà nước. Để các chuỗi và mạng này của đất nước phát triển ngang tầm, hòa nhập nhanh vào “quỹ đạo” hội nhập quốc tế, cần dựa vào các FTA, cùng diễn biến và thông tin về các vấn đề trên. Tất cả hợp lại tạo thành khung lý thuyết “Phát triển CM để cải thiện TN-ap ở nền kinh tế chuyển đổi, hội nhập sâu rộng, phát triển chưa cao”

2. Phương pháp nghiên cứu

Dựa vào khung lý thuyết “Phát triển CM để cải thiện TN-ap ở nền kinh tế chuyển đổi, hội nhập sâu rộng, phát triển chưa cao” vừa được xây dựng, xác định các lĩnh vực cần nghiên cứu, các đối tượng cần tiếp cận, các nguồn tài liệu cần tham khảo. Từ nguồn tài liệu thu thập được, tiến hành nghiên cứu định tính, với các phương pháp chính là phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết, phương pháp chuyên gia, phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm, phương pháp nghiên cứu lịch sử... Trên quan điểm duy vật biện chứng: dùng phép diễn dịch để suy đoán hệ quả tất yếu, dùng phép so sánh để đưa ra nhận định trung gian, sử dụng phép quy nạp để đưa ra kết luận, tổng hợp lại để đề đạt kiến nghị, giải pháp.

Dữ liệu được thu thập từ Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), Ngân hàng Thế giới (WB), Bộ Công Thương, Tổng cục Thống kê (GSO), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI). Các số liệu không chú dẫn nguồn về thương mại là dẫn theo Báo cáo Xuất nhập khẩu Việt Nam 2020 của Bộ Công Thương; về các tổ chức kinh tế nông nghiệp là dẫn theo Sách trắng Hợp tác xã Việt Nam 2021 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

3. Kết quả và thảo luận

3.1. Thực trạng phát triển các chuỗi cung ứng để cải thiện mạng lưới thương mại cho nông sản ở Việt Nam

3.1.1. Các thành tựu Việt Nam đã đạt được trong phát triển các chuỗi cung ứng để cải thiện mạng lưới thương mại cho nông sản ở Việt Nam

Việt Nam, từ năm 1954 ở miền Bắc và từ năm 1975 trên quy mô cả nước, nhất là những năm 1979 - 1986, phát triển nền kinh tế tập trung. Từ bao diêm, cái bát được chuyên môn hóa; từ cân đường, bìa đậu được “kế hoạch”; nông sản bán theo “tem phiếu” tại cửa hàng. Các “CM” và TN này được xây dựng và điều hành theo mệnh lệnh hành chính, bỏ qua nguyên tắc thị trường, mua bán nông sản bị “ngăn sông, cấm chợ”. Phần lớn CM, TN đó đã “đứt gẫy”, tê liệt khi sang cơ chế thị trường, song đã giúp nước ta vượt qua giai đoạn 1977 - 1994 nhiều khó khăn từ bị Mỹ cấm vận, Trung Quốc “trở mặt”, Liên Xô tan rã; đến khủng hoảng kinh tế, có nguy cơ vỡ nợ quốc gia (Quoc Anh Le and Thi Tram Anh Le, 2019) - có nhiều thành tựu, kinh nghiệm trong tổ chức CM và TN-ap.

Từ ngày Đổi mới, Việt Nam chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, triển khai cơ chế kinh tế thị trường, thực hiện mở cửa kinh tế với bên ngoài. Nhờ đó, nhiều CM được xây dựng và phát triển, nhất là từ năm 2013, khi có Nghị quyết 22/NQ-TW về hội nhập quốc tế, tiêu biểu là các CM của Vinamilk, True Milk, Viettel. Nhiều doanh nghiệp FDI giữ vị trí quan trọng trong CM toàn cầu của Samsung, Intel, Nokia, LG, Canon, Honda. Đặc biệt, hơn 10 năm qua nhiều CM nông sản đã từng bước hình thành và phát triển, TN-ap dần được cải thiện, giúp cho kim ngạch xuất khẩu các nông sản chính có xu hướng tăng lên không ngừng...

b2

Đến cuối năm 2019, cả nước có 8.496 xã nhưng có 8.528 chợ làm đầu mối tiêu thụ nông sản. Trong đó có 224 chợ loại I, tức có trên 400 điểm kinh doanh, được xây dựng kiên cố, hiện đại theo quy hoạch ở vị trí trung tâm, được họp thường xuyên. Liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản được chú trọng, đến tháng 02 năm 2021, 56/63 tỉnh/thành đã có chính sách khuyến khích; 48/63 tỉnh/thành có danh mục cần khuyến khích; 16/63 tỉnh/thành phê duyệt 359 dự án. Đã xây dựng 1.621 chuỗi nông sản an toàn cho 2.346 sản phẩm, 26 mô hình chuỗi liên kết giữa hộ nông dân - hợp tác xã - doanh nghiệp trong sản xuất và tiêu thụ mía đường và lúa gạo. Còn tư vấn xây dựng liên kết 74 chuỗi sản xuất sản phẩm chủ lực, 357 mô hình khuyến nông; xây dựng thương hiệu và quảng bá cho 257 nông sản. Còn có 271 tổ chức khoa học, gần 587.000 hộ nông dân, 4.028 hợp tác xã nông nghiệp tham gia liên kết với 1.867 doanh nghiệp hoạt động trong nông nghiệp (Hải Lâm & Phúc Sơn, 2021). Nhờ đó, TN-ap đã từng bước được cải thiện đáng kể cả về số lượng, chất lượng, ở nhiều cấp vùng và trên quy mô cả nước...

3.1.2. Các hạn chế chủ yếu trong phát triển các chuỗi cung ứng để cải thiện mạng lưới thương mại cho nông sản ở Việt Nam

Điển hình là: (i) Các CM phi nông sản chủ yếu được phân bố ở các thành phố lớn, các tỉnh ưu đãi thu hút đầu tư cao, thường “kịch trần” với FDI, hoặc ven đường cao tốc ở vùng gần biển. Đó thường là nơi có mạng lưới tiêu thụ cho nông sản đã được quy hoạch và triển khai khá đồng bộ từ nhiều năm trước, nên tác động giúp cải thiện mạng này trong thời gian tới không lớn. (ii) Các CM nông sản trong phạm vi quốc gia chủ yếu do tư thương thao túng, dẫn đến người sản xuất bị ép giá, ép nuôi trồng ngoài quy hoạch; còn có việc nuôi trồng theo phong trào, khiến không ít cây công nghiệp phải chặt bỏ. Mới chủ yếu có CM cho nông sản cơ bản, hoặc một vài nông sản chế biến ở các vùng kinh doanh phát triển; nông sản phái sinh hầu hết mới có trên TN-ap ở phạm vi nhỏ hẹp. (iii) Nhiều CM nông sản ngoại đang làm việc cải thiện TN-ap ở nước ta thêm khó khăn và phức tạp, khi nông sản ngoại lấn át cả về mẫu mã, chất lượng. Việc người Thái thâu tóm các trung tâm thương mại lớn như Nguyễn Kim, Central Group, TCC Group, Metro Cash & Carry và BigC tại Việt Nam - đe dọa quyền chủ động tiêu thụ nông sản Việt trên đất Việt Nam. (iv) Các CM nông sản toàn cầu Việt gặp khó về quy mô hàng hóa, khi Luật Đất đai gây khó cho việc tích tụ, tập trung đất đai, quy trình sản xuất nông nghiệp thường dễ dãi. Tự nhiên bị phân hóa sâu sắc, kinh tế - xã hội bị tụt hậu làm khó phân bố sản xuất nông nghiệp chuyên môn hóa trên quy mô lớn, mà thường sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, khiến nông sản khó đồng đều, khó vươn xa trên thị trường quốc tế. (v) Tác động cải thiện TNap Việt từ phát triển của các CM cả phi nông sản hoặc nông sản nội đều chưa cao.

Ngoài ra, các nhà FDI ít mặn mà với việc phát triển CM cũng như cải thiện TN-ap Việt, khi chỉ có hơn 2% số dự án và hơn 1% vốn FDI đầu tư vào nông nghiệp...

3.1.3. Nguyên nhân của hạn chế trong phát triển các chuỗi cung ứng để cải thiện mạng lưới thương mại cho nông sản ở Việt Nam

Các nguyên nhân chính là: (i) Nhận thức về CM cũng như về TN-ap ở nước ta chưa theo kịp thời đại; còn xem nhẹ “tính cách mạng cao của nông nghiệp” (Shimon Peres, dẫn theo Dan & Saul, 2014, 373). Mặt khác, Việt Nam hơn 30 năm qua xem nhẹ phân vùng, quy hoạch nông nghiệp; đề cao sở hữu tập thể mang tính duy ý chí, và có tâm lý sợ triển khai các mô hình nông nghiệp có “nguy cơ đối với chủ nghĩa xã hội” (Ngô Duy Đông, dẫn theo Đặng Phong, 2012, 201). (ii) Chưa thành công trong việc tìm mô hình sản xuất hàng hóa cho nông nghiệp, năm 2019, mới có gần 1,1/18,6 triệu lao động nông nghiệp làm trong bốn dạng thương nhân nông nghiệp tiên tiến, mức thương mại cho nông sản thấp. Cả nước mới có 45 Liên hiệp hợp tác xã; 15.300 hợp tác xã nông nghiệp; 36.000 trang trại, và 12.581 doanh nghiệp hoạt động trong nông nghiệp; nên thiếu thương nhân hoạt động thương mại trong nông nghiệp. (iii) Môi trường kinh doanh nông sản chưa thông thoáng, minh bạch; phương thức quản lý nông nghiệp lạc hậu, với không ít cán bộ thoái hóa biến chất. Xuất khẩu nông sản đôi khi còn bị lợi ích nhóm chi phối; phân chia lợi ích trong xuất khẩu nông sản chưa công bằng, chưa thu hút được đông đảo nông dân. (iv) Dùng tỉnh/thành có quy mô diện tích, dân số và GDP nhỏ làm địa bàn tổ chức sản xuất và để họ tự quyết cơ cấu, làm “nát vụn” nhiều tiềm năng phát triển chuyên môn hóa nông nghiệp tập trung theo vùng.

b3

Chủ nghĩa thành tích và coi trọng thành tích để tuyên truyền hơn là hiệu quả kinh tế đích thực, khiến nhiều thành tố lỗi thời khó bị thay thế; các mô hình nông nghiệp mới khó được triển khai, nhất là khi đụng chạm đến các luận điểm đã “đóng đinh” vào tư duy. (v) Còn nạn “ăn mảnh” trong cung ứng nông sản, công tác dự báo thị trường chưa tốt, còn nhiều gian lận thương mại xảy ra, xử lý các sai phạm chưa nghiêm, chưa đủ sức răn đe. Tư duy nông nghiệp lạc hậu, chưa công bằng với các nhà sản xuất nông sản sạch, chưa dám “cách mạng” trong việc loại trừ các nông sản đã mất lợi thế, còn phụ thuộc nhiều vào thị trường Trung Quốc...

3.1.4. Một số vấn đề đặt ra trong phát triển các chuỗi cung ứng để cải thiện mạng lưới thương mại cho nông sản ở Việt Nam

Có nhiều đòi hỏi thực tiễn mà Việt Nam phải đối đầu, tiêu biểu là: (i) Đến lúc phải đánh giá lại vị trí của nông nghiệp trong chiến lược phát triển, khi hội nhập sâu rộng ở vị thế tụt hậu thì đó là lựa chọn số một, là “bệ đỡ” chính để đi tới phồn vinh. Song đó không phải là nền nông nghiệp dàn trải về cây - con, không bản sắc, mức thương mại hóa thấp, lạc hậu, quy trình sản xuất thiếu chặt chẽ, khó cạnh tranh cả về khác biệt, chi phí và hình thức. (ii) Nếu chậm phát triển CM toàn cầu cho nông sản, thì không chỉ khó mở rộng thị trường, mà còn khó giữ thị phần đã có trên thị trường thế giới cho các loại nông sản đang có. Công nghệ sinh học trong thời đại 4.0 đang đe dọa bản năng “đặc hữu” của nhiều nông sản của các nước phát triển chưa cao, do có thể tạo ra các nông sản thay thế, thậm chí còn an toàn và hấp dẫn hơn. (iii) Nếu chậm phát triển CM toàn cầu cho nông sản, thì không chỉ khó khai thác EVFTA, vì vài năm nữa các tác động tích cực từ đó sẽ giảm dần, cơ hội bị vuột đi và “đối thủ” khác sẽ chiếm chỗ. Mà còn bị các CM toàn cầu cho nông sản của Malaysia, Thái Lan, Trung Quốc và nhiều nước khác chiếm cả thị trường nội địa, nhất là khi người Việt có thị hiếu chuộng hàng ngoại. (iv) Nếu chậm trễ trong việc phát triển các CM để cải thiện TN-ap, dễ dẫn tới nạn “chảy máu” nhân lực ở nông thôn vì thúc bách về thu nhập. Có thể phá vỡ sự gắn kết giữa các thành tố trong hệ thống kinh tế - xã hội ở nông thôn, làm gia tăng cách biệt thành thị - nông thôn, khiến đất nước kém ổn định hơn trong thế giới biến động hiện nay. (v) Cải thiện TN-ap là giải pháp căn cơ và thiết thực trong việc góp phần nâng cao thu nhập cho người dân, nhất là ở vùng thuần nông, khó phát triển doanh nghiệp. Khi 2/3 dân số sống ở nông thôn, đây là “chìa khóa” quyết định việc có thể trở thành nước có thu nhập cao vào năm 2045, hơn nữa đây là việc đưa nông nghiệp lên tầm cần có mà đã bị chần chừ, sao nhãng bấy lâu nay...

3.2. Giải pháp thúc đẩy việc phát triển chuỗi cung ứng để cải thiện mạng lưới thương mại cho nông sản ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Phát huy thành tựu đã có, tiếp tục các công việc đang làm để góp phần làm tốt hơn công việc xây dựng và phát triển các CM để cải thiên TN-ap. Vận dụng kinh nghiệm của Malaysia để phát triển các CM nông sản bền vững; bài học của Thái Lan để cải thiện hiệu quả TN-ap. Đồng thời, cần dựa vào đòi hỏi của thực tiễn, khai thác cơ hội, khắc phục hạn chế, để phát triển tốt hơn các CM, để cải thiện nhiều và mạnh hơn TN-ap. Bản chất là vận dụng sâu hơn các nội dung còn yếu hoặc thiếu trong khung nghiên cứu, cụ thể là cần thực thi các nhóm giải pháp chính sau:

Một là, tiến hành phân vùng kinh tế, gồm cả phân vùng nông nghiệp, theo bối cảnh hội nhập, để chỉ ra cơ cấu sản phẩm chuyên môn hóa của đất nước, từ đó xác định các CM toàn cầu cần phát triển để góp phần cải thiện TN quốc tế cho nông sản của nước ta.

Một nước chỉ hội nhập thành công vào FTA khi vừa khai thác được nhiều nhất sự hỗ trợ từ bên ngoài, vừa đóng góp được nhiều vào phát triển kinh tế của FTA. Với nước phát triển chưa cao như Việt Nam, để tiến nhanh trên con đường “Công nghiệp hóa bắt kịp”, cần khai thác tốt các lợi thế - nhất là về nông nghiệp, để cân đối cán cân xuất nhập khẩu. Để biết nên xuất khẩu nông sản nào, từ đâu và tới đâu, với quy mô và chất lượng thế nào - Việt Nam cần phân vùng kinh tế, nhất là phân vùng nông nghiệp. Lấy bối cảnh đáp ứng các nhu cầu xuất khẩu - hàng phi nông sản, nhưng tập trung vào nông sản, cho các nước theo các cam kết mới nhất theo các FTA. Dựa vào khác biệt địa lý, cơ cấu đối tác thương mại, thị hiếu tiêu dùng và cơ cấu nông sản nhập khẩu, chỉ ra nên xuất sản phẩm gì sang nước nào trong từng FTA. Với 14 FTA đã có hiệu lực với 55 đối tác; chắc chắn rằng: Việt Nam không chỉ có 8 mặt hàng “nông nghiệp tỷ USD”, mà còn nhiều hơn, với giá trị kim ngạch không chỉ vài tỷ USD/nông sản. Giúp xác định được các CM toàn cầu cần phát triển, với nhiều CM toàn cầu về nông sản, từ đó tạo ra nhiều thay đổi về các mặt hàng, hướng đi và quy mô của chúng. Nhờ đó giúp cải thiện không ít TN-ap tầm quốc tế cho nước ta theo hướng thực tế, mang về nhiều lợi nhuận hơn một cách khôn ngoan, bền vững và hiệu quả hơn...

Hai là, từ các CM toàn cầu cho nông sản được phân bổ, các vùng phát triển các vùng chuyên canh cấp quốc gia; từ các khả năng còn lại, phát triển các vùng chuyên canh cấp vùng, nhằm phát triển các CM tầm quốc gia để cải thiện TN-ap giữa các vùng.

Đất nước chỉ phát triển nhanh nhất, mạnh nhất khi mọi vùng đều phát huy được thế mạnh, không phải đầu tư vào việc sản xuất các sản phẩm mà không có lợi thế. Do đó, sau khi xác định các CM nông sản toàn cầu cần có; dùng các khả năng nổi bật trong cơ cấu khả năng của cả nước, chỉ ra các vùng chuyên môn hóa chính, có liên quan. Từ đó, chỉ ra các khả năng phát triển còn lại của từng vùng - trong đó trội hơn là các khả năng chính. Để khai thác tốt các khả năng chính, cần dựa vào dự báo về nhu cầu nông sản nội địa, xác định các vùng nông nghiệp chuyên môn hóa cấp quốc gia trong mỗi vùng. Khi được phê duyệt, đó sẽ là các nông sản chuyên môn hóa, được dùng làm cơ sở để xây dựng và phát triển các CM nông sản tầm quốc gia, dùng để trao đổi qua lại giữa các vùng. Trên thực tế, đó phần lớn là các nông sản đạt tiêu chuẩn “5 sao” hoặc “4 sao” trong Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) của Chính phủ. Ngoài ra, nhiều đặc sản quý hiếm, nếu được đầu tư công nghệ cao sẽ đủ sức chuyên môn hóa theo vùng, như nuôi hươu lấy nhung, nuôi cá sấu lấy da, nuôi sò huyết, đồi mồi, chim yến; hoặc phát triển để thay thế nông sản nhập khẩu, nhất là để làm thức ăn chăn nuôi... Nhờ đó, sẽ có nhiều CM nông sản tầm quốc gia, tạo ra nguồn cung nông sản chất lượng, giúp cải thiện đáng kể nền nông nghiệp theo hướng có hiệu quả cao; góp phần cải thiện không nhỏ TN-ap giữa các vùng trên quy mô cả nước...

Ba là, từng vùng triển khai các CM phi nông sản được phân bổ, kể cả của FDI, qua đó xác định các khả năng còn lại, có thể phát triển được số và lượng, cũng như có tổng cầu và các địa chỉ cần nông sản ra sao, dựa vào đó cải thiện TN-ap trong vùng.

Sau khi đã đưa khả năng nổi bật và khả năng chính vào phát triển các CM nông sản toàn cầu và CM nông sản quốc gia, từng vùng cần phát triển các cơ sở sản xuất phục vụ cho các CM phi nông sản của vùng. Trình tự này “ngược” với truyền thống ưu tiên cho quá trình công nghiệp hóa, nhưng là trình tự cần có với nước có sự tụt hậu tương đối như Việt Nam. Vừa thể hiện sự tôn trọng tính cách mạng cao của nông nghiệp như kinh nghiệm khởi nghiệp của Israel; vừa là cách mang lại nhiều sản phẩm xuất ra ngoài vùng nhất, từ đầu tư thấp mà thu về lợi nhuận cao. Hơn nữa, cơ sở phục vụ các CM phi nông sản, kể cả của FDI, có thể phân bố ở nơi đất đai khô cằn, khó phát triển nông nghiệp.

Từ sự phân bố của các CM nông sản và phi nông sản và các vùng cư trú của dân cư và lao động phục vụ chúng, có thể xác định tổng cầu và các địa chỉ cần nông sản. Dựa vào đó, tập trung phát triển các loại rau quả, thực phẩm khó mang từ nơi khác đến, cũng như dùng các khả năng tạo ra nông sản phái sinh, nông sản chế biến - để đáp ứng. Ngoài ra, phát triển các đại lý, cơ sở bán buôn cho nông sản nhập về; kết hợp với du lịch, nghỉ dưỡng, đưa các nông sản chế biến phục vụ khách du lịch, thực hiện xuất khẩu “tại chỗ”... Tất cả hợp lại tạo thành ma trận mới về cung cấp và tiêu thụ nông sản, góp phần cải thiện sâu sắc và toàn diện TN-ap trong vùng...

Bốn là, từng vùng căn cứ vào các đầu mối tiêu thụ nông sản cuối cùng, cụ thể, tiến hành cải thiện giống, đổi mới quy trình sản xuất, chế biến; hoàn thiện thể chế thương mại, giải quyết nhanh, thỏa đáng các vi phạm, hướng tới hình thành TN-ap phát triển...

Bên cạnh đó, cần tiến hành nhiều giải pháp phối hợp, nhằm nâng cao chất lượng hoạt động, tiến tới thương mại bền vững, cụ thể cần: (i) Hình thành “Văn hóa Thương mại” mới phù hợp với hội nhập, như xây dựng quan điểm “win-win” trong kinh doanh, sửa đổi các luật: Đất đai, Kinh doanh theo chuẩn mực quốc tế. Cho phép tài trợ cao và đồng thời phạt nặng các vi phạm hợp đồng để củng cố niềm tin trong các mô hình sản xuất nông nghiệp mới. (ii) Đổi mới quản trị thương mại, thực hiện hai cuộc “cách mạng” là xử lý mâu thuẫn còn có giữa thể chế chính trị với thể chế kinh tế (Lê Duy Phong, 2014); chuyển sang quản lý theo vùng kinh tế - xã hội, và theo CM.

Triển khai cải tạo đất, áp dụng “tứ hóa” và công nghệ sinh học 4.0 để mở rộng các vùng nuôi trồng, thực hiện chuyên môn hóa sâu trong nông nghiệp. (iii) Tăng cường liên kết cả trong nước và với nước ngoài, để nâng tầm cho các CM, hướng tới tạo ra CM đối trọng xứng tầm với các CM của các tập đoàn đa quốc gia. Hướng tới quan hệ thương mại bình đẳng và chủ động hơn trong thương mại quốc tế; đưa các nông sản chế biến như Sữa TH, Sữa Vinamilk thành các thương hiệu mạnh. (iv) Tiếp tục thúc đẩy và cải thiện nền nông nghiệp, tăng cường bảo vệ các loài gen quý hiếm, nghiên cứu nhập nội các loại giống vật nuôi, cây trồng chất lượng cao, kể cả biến đổi gen.

Phát triển các trung tâm “hậu cần” cho nông nghiệp, nhất là về giống, phụ liệu chăn nuôi, chiếu xạ phục vụ xuất khẩu, đưa chợ đầu mối về các vùng chuyên canh. (v) Mở các lớp, khóa đào tạo, biên soạn sách hướng dẫn về tổ chức nông nghiệp hiện đại, các quy trình sản xuất, kinh doanh nông sản theo chuẩn mực quốc tế. Khảo sát, hội thảo, học tập nước bạn, xử lý nghiêm các vi phạm trong hoạt động thương mại để củng cố niềm tin, tránh việc làm nhiễu loạn tín hiệu thị trường...

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Bộ Công Thương (2021), ‘Báo cáo Xuất nhập khẩu Việt Nam 2020’, NXB Công Thương.

2. Bộ Kế hoạch - Đầu tư (2021), ‘Sách trắng Hợp tác xã Việt Nam 2021’, NXB Thống kê.

3. 6. Hải Lâm & Phúc Sơn (2021), ‘Liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản’,<https://nhandan.vn/chuyen-lam-an/lien-ket-san-xuat-gan-voi-tieu-thu-nong-san-636242/>.

ThS. Lê Quốc Anh - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

Phạm Thùy Nguyên - Công ty TNHH Robert Bosch

Lê Thị Trâm Anh - Đại học New South Wales, Australia

Tạp chí in số tháng 3/2023
Bạn đang đọc bài viết Phát triển chuỗi cung ứng để cải thiện mạng lưới thương mại cho nông sản tại chuyên mục Bài báo khoa học của Tạp chí Tài chính doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác:

email: [email protected], hotline: 086 508 6899