Sự phát triển về quy định pháp luật của cơ chế giám sát ngân hàng trong khu vực EU

04/10/2020, 15:15

TCDN - Ngân hàng Trung ương châu Âu đã khám phá được những thách thức khác nhau trong các phát triển lập pháp mới được đề xuất và thực hiện dưới sự giám sát của Ủy ban châu Âu. Bài viết đã nhấn mạnh rằng hai trụ cột chính của Liên minh ngân hàng EU là SSM và SRM đang đối mặt với một số thách thức.

6-1

Tóm tắt

Bài viết nhằm mục đích thảo luận và đánh giá những phát triển lập pháp mới nhất của Liên minh châu Âu trong lĩnh vực giám sát ngân hàng, trình bày các đánh giá quan trọng về pháp luật giám sát ngân hàng tồn tại và chi phối các quốc gia thuộc khu vực EU và các quốc gia không thuộc khu vực EU khác dưới giác độ so sánh.

I. Những phát triển lập pháp của EU trong lĩnh vực giám sát ngân hàng

Cơ quan lập pháp châu Âu có mục đích tạo ra một ngành tài chính an toàn và lành mạnh trong Liên minh châu Âu kể từ khi bắt đầu cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007. Với mục đích này, báo cáo do De Lorosiere trình bày năm 2009, khuyến nghị thành lập một cơ chế hiệu quả giám sát tài chính cần được đặc trưng với việc phân cấp, hệ thống nhiều lớp chi phối bởi các cơ quan an toàn vĩ mô và vi mô. Lý do đằng sau việc thiết lập hệ thống giám sát là để đảm bảo sự ổn định của thị trường tài chính ngân hàng với môi trường hoạt động tốt và tránh đi những tác động tiêu cực.

Vào tháng 5 năm 2009, Ủy ban Châu Âu đã đề xuất một loạt cải cách để tạo ra một khuôn khổ thể chế mới và hiệu quả cho Hệ thống Giám sát Tài chính Châu Âu (ESFS), bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2011. Hiện tại, ESFS bao gồm các quy phạm an toàn vĩ mô và vi mô. Trong bối cảnh này, những phát triển lập pháp mới nhất được thực hiện trong bối cảnh giám sát ngân hàng nhấn mạnh vào ba yếu tố chính của Liên minh châu Âu. Ba yếu tố này là những quy định sử dụng quy tắc đơn, giám sát thông qua Cơ chế giám sát đơn nhất (SSM) và Cơ chế giải quyết đơn nhất (SRM). Để đối phó với khủng hoảng khu vực EU, một bộ quy tắc duy nhất đã được thiết kế và thi hành cho tất cả các chủ thể tài chính trên tất cả 28 quốc gia EU trong năm 2012. Quy tắc duy nhất chi phối theo hướng thiết lập các yêu cầu an toàn vĩ mô cho các ngân hàng, cải thiện các quy tắc bố trí và bảo vệ của người gửi tiền liên quan đến việc quản lý các ngân hàng. Liên minh ngân hàng chuyển trách nhiệm chính sách ngân hàng sang cấp EU từ cấp quốc gia với mục đích xử lý sự yếu kém của ngân hàng.

Kể từ năm 2014, trong hệ thống giám sát ngân hàng, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) có vai trò trung tâm với sự hợp tác của các cơ quan giám sát quốc gia. Vào ngày 1 tháng 1 năm 2016, Cơ chế giải quyết đơn nhất đã có hiệu lực tại tất cả các quốc gia thành viên của khu vực EU. Trụ cột đầu tiên của liên minh ngân hàng là Cơ chế giám sát đơn nhất (SSM). Để thành lập SSM tại quốc gia này, EU đã thực hiện một số quy trình lập pháp thông qua Quy định của Hội đồng (EU) số 1024/2013, Quy định (ECB) 468/2014 (Quy định 468) và Quy định (EU) số 1022/2013. Đây là một số phát triển lập pháp quan trọng được thông qua và thực hiện để thiết lập một khung pháp lý hiệu quả cho Cơ chế giám sát đơn nhất. Quy định của Hội đồng (EU) số 1024/2013 đã thành lập SSM như một hệ thống toàn diện để giám sát các ngân hàng ở các nước EU . Quy định đã trao các nhiệm vụ cụ thể liên quan đến các chính sách liên quan đến sự giám sát vĩ mô của các tổ chức tín dụng EU. Hơn nữa, Quy định (ECB) 468/2014 (Quy định 468), đã thiết lập khuôn khổ hợp tác giữa Cơ quan có thẩm quyền quốc gia và Ngân hàng trung ương châu Âu, cùng với các cơ quan được chỉ định ở cấp quốc gia trong cơ chế của SSM. Với việc thông qua luật, một khuôn khổ hiệu quả của SSM được thành lập tại Liên minh châu Âu, trong đó ECB đóng vai trò là người giám sát vĩ mô của các tổ chức tài chính trong các quốc gia thuộc khu vực EU, cũng như các quốc gia không thuộc khu vực EU nhằm tham gia SSM . Sự phát triển lập pháp mới làm rõ vai trò của ECB và Cơ quan có thẩm quyền quốc gia (NCA), bằng cách ủy quyền cho ECB giám sát trực tiếp các ngân hàng lớn nhất ở EU và các cơ quan giám sát quốc gia được giao trách nhiệm giám sát các ngân hàng còn lại. Hơn nữa, Quy định (EU) số 1022/2013, đã thành lập một cơ quan giám sát có tên là Cơ quan Ngân hàng Châu Âu liên quan đến các nhiệm vụ cụ thể về Ngân hàng Trung ương Châu Âu.

Trong sự phát triển lập pháp, trụ cột quan trọng thứ hai của liên minh ngân hàng EU là thành lập Cơ chế giải quyết đơn nhất (SRM). Việc thành lập SRM nhằm mục tiêu để đảm bảo một giải pháp có trật tự của các ngân hàng trong nước. Điều này nhấn mạnh vào việc tạo ra một chi phí tối thiểu cho nền kinh tế thực, cũng như cho người nộp thuế bằng cách thiết lập một khung giải quyết ngân hàng toàn diện cho các quốc gia làm việc tại EU. Trong mối quan hệ này, Ủy ban Châu Âu hiện đang làm việc để cải thiện các quy tắc thận trọng liên quan đến Quy định (EU) số 806/2014 hướng vào cơ chế giải quyết duy nhất. Quy định của Nghị viện Châu Âu (EU) số 806/2014 đã thiết lập các quy tắc và thủ tục thống nhất liên quan đến việc giải quyết một số công ty đầu tư và tổ chức tín dụng làm việc trong khuôn khổ cơ chế giải quyết đơn nhất và một quỹ giải quyết duy nhất. Về khía cạnh này, Ủy ban đã đề xuất sửa đổi mới vào ngày 23 tháng 11 năm 2016 liên quan đến các quy định của cơ chế giải quyết đơn nhất. Các sửa đổi tập trung vào việc tăng cường khung giải quyết ngân hàng EU, và nó cũng tăng cường khả năng của cơ quan có thẩm quyền để bảo vệ các quỹ công cộng và sự ổn định tài chính bằng cách thông qua nghị quyết hiệu quả.

Từ các ý kiến nêu trên, các phát triển lập pháp đã được thực hiện dần bởi Ủy ban châu Âu tại các quốc gia thuộc khu vực EU. Cuộc thảo luận đã tiết lộ rằng việc thành lập liên minh ngân hàng tại EU kết hợp các quy định an toàn vĩ mô và vi mô khác nhau, được thực hiện để phá vỡ vòng lặp cam kết tồn tại giữa nợ công và ngân hàng, cùng với việc bảo vệ và thúc đẩy ổn định tài chính và giảm thiểu tất cả các biến số chính có thể dẫn đến các cú sốc tài chính tiếp theo. Điều này đã được đảm bảo để đạt được với chi phí thấp nhất cho người nộp thuế và các tổ chức tài chính.

Ngân hàng Trung ương châu Âu đã khám phá được những thách thức khác nhau trong các phát triển lập pháp mới được đề xuất và thực hiện dưới sự giám sát của Ủy ban châu Âu. Bài viết đã nhấn mạnh rằng hai trụ cột chính của Liên minh ngân hàng EU là SSM và SRM đang đối mặt với một số thách thức. Thách thức chính trong Cơ chế giám sát thống nhất có liên quan đến vai trò mới của ECB với tư cách là giám sát dẫn đến tạo ra xung đột giữa mục tiêu giá cả và mục tiêu ổn định tài chính. Chính xác hơn, thách thức này liên quan đến việc thiết lập cơ chế giám sát thống nhất mới ở các nước châu Âu thay cho ECB có vẻ không tối ưu về mặt lý thuyết. Một phát hiện tương tự được trình bày bởi Fallesen (2015) đã đề cập rằng với việc thực hiện cơ chế giám sát thống nhất, Ủy ban Ngân hàng châu Âu có thể không thể thiết lập và đảm bảo mức độ trách nhiệm và luồng thông tin đầy đủ giữa các cơ quan quản lý quốc gia. Cùng với điều này, trách nhiệm chính thức của nó đối với các chính trị gia trong Hội đồng và nghị viện châu Âu với các năng lực phi chuyên môn hiện thời có thể không được chấp nhận về mặt chính trị trong dài hạn.

Avaro và Sterdyniak (2013) đã giải thích rằng tại các quốc gia thuộc khu vực EU, liên minh ngân hàng cung cấp một loạt hỗ trợ trong việc phá vỡ mối quan hệ giữa khủng hoảng ngân hàng và khủng hoảng nợ công. Điều này đạt được bằng cách giao phó giám sát ngân hàng ở cấp EU một cách hiệu quả, thực hiện một cơ chế chung liên quan đến quản lý bảo lãnh tiền gửi, giải quyết khủng hoảng ngân hàng và khuyến khích các ngân hàng đa dạng hóa các khoản vay và hoạt động ở châu Âu. Điều này sẽ rất có lợi để thống nhất thị trường tiền gửi và tín dụng ở châu Âu. Đây sẽ là một bước hiệu quả đối với chủ nghĩa liên bang bắt nguồn từ việc chuyển giao thẩm quyền từ các quốc gia thành viên EU sang các nhà chức trách của cả châu Âu.

Để hỗ trợ cho những phát hiện trước đó, Ngân hàng Trung ương châu Âu đã tiết lộ rằng tại các quốc gia thuộc khu vực EU như Bỉ, Áo, Bulgaria, Síp, Đan Mạch, Cộng hòa Séc và nhiều nước khác, sự ra đời của liên minh ngân hàng châu Âu phản ánh kết quả tích cực . Điều này là do các đặc điểm mạnh mẽ nhấn mạnh vào việc kết hợp hiệu quả các chính sách thận trọng vi mô và vĩ mô, thừa nhận các bài học rút ra từ khủng hoảng tài chính. Fallesen (2015) đã giải thích rằng thách thức lớn nhất trong liên minh ngân hàng châu Âu theo cơ chế giải quyết duy nhất có liên quan đến phạm vi Quỹ giải quyết thống nhất (SRF) và khả năng vượt qua khi xảy ra khủng hoảng tài chính mới. Các phát hiện đã tiết lộ rằng kích thước SRF được đăng ký theo cơ chế giải quyết đơn lẻ có thể không đủ khả năng xử lý khủng hoảng quy mô lớn, so với điều này, các ngân hàng EU ở cấp độ cá nhân có khả năng trung bình hơn để hấp thụ hiệu quả sự bất đối xứng cường độ lớn những cú sốc. Để xử lý nó, một cơ chế giám sát chặt chẽ và hiệu quả theo SSM sẽ rất có lợi trong việc giảm các quỹ tham gia vào tình huống khủng hoảng. Chìa khóa của nó sẽ là đảm bảo chất lượng giám sát của ECB và tăng cường cơ cấu vốn. Ngoài ra, việc cụ thể hóa chính trị tối thiểu cần được thực hiện để hỗ trợ cho liên minh ngân hàng. Sự ban hành hiệu quả của liên minh ngân hàng châu Âu ở cấp quốc gia EU, cung cấp một mô hình giám sát và cơ cấu thể chế tối ưu duy nhất để đảm bảo giám sát tài chính hiệu quả trên tất cả các quốc gia thành viên của EU.

II. Những quy định về giám sát ngân hàng ở các quốc gia ngoài khu vực EU

Hiện tại, để giám sát các hoạt động ngân hàng, các quốc gia ngoài khu vực EU đang tham gia vào sự hợp tác chặt chẽ với ECB. Trong ECB, các quốc gia ngoài khu vực EU nắm giữ quyền quyết định tương tự. Một phần đáng kể được nắm giữ bởi quyền sở hữu nước ngoài tại các quốc gia thành viên không thuộc khu vực Euro - tài sản hệ thống ngân hàng '. Ở các quốc gia không thuộc khu vực EU như ở Hoa Kỳ, Luật Ngân hàng Liên bang, cũng như luật pháp tiểu bang đều tồn tại và chi phối các quốc gia hoạt động. Điều này phụ thuộc vào hình thức điều lệ mà một tổ chức ngân hàng có trong chức năng và cấu trúc tổ chức. Để giám sát các hoạt động ngân hàng ở Mỹ, Hệ thống Dự trữ Liên bang nắm giữ một quyền lực đáng kể để điều chỉnh và giám sát các tổ chức tài chính và hoạt động đa dạng ở nước này. Nó có chức năng kết hợp với chính quyền tiểu bang và liên bang để đảm bảo quản lý an toàn các hoạt động của tổ chức tài chính, cùng với việc cung cấp các dịch vụ công bằng và công bằng cho các nhà đầu tư. Ngoài các cơ quan quản lý ở Mỹ, quốc gia này còn có các cơ quan quản lý riêng về chứng khoán, bảo hiểm và hàng hóa ở cấp tiểu bang và liên bang. Điều này đã không được chứng minh ở Vương quốc Anh và Nhật Bản nơi có cơ quan quản lý tài chính duy nhất để điều hành các hoạt động đa dạng của ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán. Tất cả các hoạt động giám sát ngân hàng tại Hoa Kỳ đều chịu sự giám sát của Văn phòng Tổng kiểm toán về Tiền tệ (OCC) có điều lệ điều chỉnh và điều chỉnh các hiệp hội tiết kiệm liên bang, ngân hàng quốc gia, các cơ quan ngân hàng không thuộc Hoa Kỳ và các chi nhánh liên bang.

Ngoài cuộc thảo luận ở trên, McKeown (2017) đã phân tích rằng trong cuộc khủng hoảng tài chính, một sự xáo trộn tài chính đáng kể đã được nhận thấy trên toàn hệ thống tài chính toàn cầu. Tuy nhiên, không có ngân hàng Canada nào phải đối mặt với tình trạng hỗn loạn tài chính bởi vì ngân hàng nước này không có nguy cơ sụp đổ hoặc cứu trợ từ chính phủ. Điều này là do tính năng quản lý tốt, vốn hóa tốt và khung quy định hiệu quả. Hiện tại, Canada có cơ chế điều tiết tập trung để quản lý hệ thống ngân hàng, tập trung đáng kể vào sự ổn định tài chính và các quy định thận trọng vĩ mô trong hệ thống tài chính. Các hoạt động ngân hàng ở Canada được điều chỉnh bởi Đạo luật Ngân hàng, là đạo luật chính của liên bang điều chỉnh tất cả các khía cạnh quan trọng của ngân hàng, với mục đích thúc đẩy một ngành ngân hàng hiệu quả và mạnh mẽ bao gồm các tổ chức cạnh tranh và kiên cường. Ngoài ra, Canada là một nước ủng hộ mạnh mẽ trong việc thành lập Ủy ban ổn định tài chính và đóng vai trò là cơ quan tài phán hàng đầu về việc áp dụng khung pháp lý quốc tế, Basel III. Đạo luật Ngân hàng Canada cũng trao quyền để điều chỉnh các ngân hàng trong nước, ngân hàng công ty con nước ngoài và chi nhánh của các ngân hàng tổ chức nước ngoài.

Một quốc gia không thuộc khu vực EU khác là Nhật Bản phát triển do tính hiệu quả và cấu trúc tốt của thị trường tài chính của đất nước. Ngành ngân hàng của Nhật Bản được quy định bởi Cơ quan Dịch vụ Tài chính (FSA) trao quyền và ủy quyền để điều chỉnh các ngành ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán và các ngành dịch vụ tài chính khác nhau. Ngân hàng Nhật Bản là ngân hàng trung ương và là người cho vay cuối cùng của đất nước. Hoạt động ngân hàng ở nước này được điều chỉnh bởi Đạo luật Ngân hàng được xây dựng năm 1927 và sửa đổi năm 1981. Đạo luật quy định phạm vi hoạt động ngân hàng quốc gia, giám sát hoạt động, điều tiết kế toán và đảm bảo sự vững chắc về tài chính của các ngân hàng trong nước. Điểm nổi bật này là các hoạt động giám sát của Ngân hàng Nhật Bản tập trung vào việc đảm bảo tính minh bạch, tăng cường khung ngân hàng và đảm bảo hoạt động hiệu quả của các đơn vị ngân hàng.

Tại Ả Rập Saudi, việc giám sát các ngân hàng được thực hiện bởi ngân hàng trung ương của đất nước, được gọi là Cơ quan tiền tệ Ả Rập Saudi (SAMA). Các ngân hàng trung ương tuân theo các nguyên tắc Hồi giáo được đưa vào điều lệ SAMA khẳng định rằng không có khoản lãi nào được trả hoặc nhận trong kinh doanh. SAMA được giao trách nhiệm thúc đẩy tăng trưởng hệ thống ngân hàng quốc gia thông qua việc khuyến khích người dân Ả Rập Saudi tin tưởng và sử dụng hệ thống ngân hàng quốc gia của đất nước.. Tại Ấn Độ, Đạo luật Điều chỉnh Ngân hàng, 1949, chi phối hoạt động kinh doanh ngân hàng và dịch vụ tài chính ở nước này. Hơn nữa, Đạo luật Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ, 1934 giao trách nhiệm ban hành các quy tắc, phương hướng, quy định.

III. Kết luận

Sự tương tác giữa nền kinh tế thực và hệ thống tài chính phụ thuộc đáng kể vào các phương pháp liên quan đến quy định bao gồm quy định tài chính, giám sát tài chính, cùng với cách thức tổ chức hệ thống tài chính. Từ các phần đã phân tích ở trên, để quản lý và giám sát lĩnh vực ngân hàng của các quốc gia, quyền hạn và trách nhiệm nên được giao cho các cơ quan quản lý khác nhau. Các khía cạnh tài chính của EU chi phối sự đa dạng của thị trường tài chính trong các quốc gia thành viên và nắm giữ mối liên hệ mật thiết tới hệ thống ngân hàng tương đối rõ nét hơn so với Mỹ. Về cơ bản, liên minh ngân hàng tại EU đã giúp khu vực này đạt được tiến bộ đáng kể đối với việc tạo ra cơ chế giám sát duy nhất và EU không có hạn chế nào liên quan đến việc mở rộng liên ngân hàng so với Mỹ. Mặt khác, tại Liên minh châu Âu, Ngân hàng Trung ương châu Âu đã trở thành tổ chức chính sách tiền tệ hàng đầu thế giới, nhưng so với hệ thống Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ, ECB được cho là kém linh hoạt hơn trong việc phản ứng với khủng hoảng. Nguyên nhân của điều này là do kết hợp một loạt các công cụ mới của chính sách tiền tệ tạo ra sự phức tạp trong việc xử lý khủng hoảng một cách hiệu quả.

Theo nghiên cứu của Czubala và Regidor (2016), các mục tiêu của Hệ thống Dự trữ Liên bang tương đối rộng hơn ECB. Tại EU, quá trình lập pháp về giám sát ngân hàng vẫn còn đang trong giai đoạn phát triển và việc thành lập liên minh ngân hàng nhằm mục đích tăng cường mối quan hệ giữa các quốc gia thành viên trong ngân hàng trung ương và các chính sách tiền tệ của họ. Mặt khác, cùng với trách nhiệm sau này, Hệ thống Dự trữ Liên bang được giao trách nhiệm kiểm soát tỷ lệ thất nghiệp. Để quản lý, FED có quyền sử dụng nhiều công cụ bao gồm ổn định tài khóa, tiền tệ và tài chính. Hơn nữa, chiến lược liên quan đến lãi suất là một sự khác biệt quan trọng khác giữa thực tiễn giám sát ngân hàng khu vực Euro và ngoài Euro. FED tập trung vào việc hạ lãi suất để đảm bảo sự ổn định của hệ thống tài chính, trong khi ECB có ưu tiên kiểm soát lạm phát.

Sự khác biệt cũng được nhận thấy đối với hệ thống Euro về giám sát ngân hàng và cơ chế của Nhật Bản trong việc điều tiết và giám sát các ngân hàng. Liên minh ngân hàng của EU nhấn mạnh đáng kể vào hai chiến lược trụ cột: Cơ chế giám sát đơn nhất và Cơ chế giải quyết đơn nhất. SSM tập trung vào các vấn đề kinh tế ngắn hạn, trong đó giá cả và sự phát triển kinh tế là những mối quan tâm hàng đầu. Trong khi đó, SRM dành sự quan tâm cho các vấn đề lạm phát dài hạn. Mặt khác, Ngân hàng Nhật Bản chủ yếu tập trung vào việc đảm bảo lạm phát trong ngắn hạn; thứ hai, nó tập trung vào phát triển kinh tế, cũng như đạt được sự ổn định tài chính trong dài hạn. Để nhằm mục đích đảm bảo sự ổn định tiền tệ, ESFS sử dụng chiến lược hai trụ cột, trong đó Ngân hàng Nhật Bản sử dụng nhiều chỉ số và có sự nhấn mạnh đáng kể vào tiền và tài sản tài chính.

Trong báo cáo được công bố bởi Darvas và Wolff (2018), bất kể cuộc khủng hoảng tài chính nào mà Liên minh châu Âu phải đối mặt, liên minh ngân hàng châu Âu có ý thức tích cực trong việc tham gia cùng các quốc gia ngoài khu vực. Điều này xuất phát điểm từ việc hội nhập tài chính toàn cầu của Liên minh châu Âu. Liên minh ngân hàng ban đầu được triển khai tại các quốc gia thành viên khu vực EU vì những tác động nghiêm trọng mà nó phải đối mặt do khủng hoảng và đặt mục tiêu chuyển giao năng lực và khả năng giải quyết của các giám sát viên quốc gia cho cấp quốc gia đối với các quốc gia thành viên khu vực EU. Tuy nhiên, để đảm bảo hiệu quả, không tạo ra các biến dạng cạnh tranh và khuyến khích thành lập một thị trường duy nhất, liên minh ngân hàng EU cần phải làm việc cởi mở bằng cách khuyến khích sự tham gia của các quốc gia ngoài khu vực Euro.

Do đó, dựa trên phân tích tổng thể, bất chấp sự khác biệt, có thể kết luận rằng các quốc gia ngoài khu vực EU có thể thông qua liên minh ngân hàng trong những năm tới để thúc đẩy hội nhập tài chính, cải thiện giám sát ngân hàng xuyên biên giới, đạt chất lượng giám sát cao và đảm bảo tính thống nhất cao trong thực tiễn giám sát, cùng với việc tránh các biến dạng cạnh tranh.

Tài liệu tham khảo:

1. Avaro, M. and Sterdyniak, H. 'Banking Union: A Solution to the Euro Zone Crisis?' (2013) WP, 1

Avaro, M. và Sterdyniak, H. ‘Liên minh ngân hàng: Giải pháp cho khủng hoảng tại châu Âu?’ (2013) WP, 1

2. Barthy, J.R., Liy, T. and Luy, W. 'Bank Regulation in the United States' (2009) CESifo ES, 1

Barthy, J.R., Liy, T. và Luy, W.’ Quy định về ngân hàng tại Hoa Kỳ (2009)’, CESifo ES, 1

3. Czubala, M.R. and Regidor, M.P. 'Central banking and the crisis. A comparison of the Federal Reserve and the European Central Bank measures, and the ECB’S changing role in the EU economic governance system' (2016) OASIS 23, 147

Czubala, M.R. và Regidor, M.P,’ Ngân hàng trung ương và cuộc khủng hoảng. So sánh các biện pháp của Cục Dự trữ Liên bang và Ngân hàng Trung ương Châu Âu, và vai trò thay đổi của ECBS trong hệ thống điều hành kinh tế của EU '(2016) OASIS 23, 147

4. Darvas, Z and Wolff, G.B. 'Should Non-Euro Area Countries Join The Single Supervisory Mechanism?' (2018) LER, 4 (2), 141 Darvas, Z và Wolff, G.B. 'Các nước không thuộc Khu vực đồng Euro có nên tham gia Cơ chế giám sát duy nhất không?' (2018) LER, 4 (2), 141

5. Darvas, Z., Schoenmaker, D and Véron. N 'Reform of the European Union financial supervisory and regulatory architecture and its implications for Asia' (2016) (9) WP, 3 Darvas, Z., Schoenmaker, D và Véron. N 'Cải cách cấu trúc quản lý và giám sát tài chính của Liên minh châu Âu và tác động của nó đối với châu Á' (2016) (9) WP, 3

6. Department of Banking Operations and Development (DBOD) and Department of Economic and Policy Research (DEPR), 'Banking Structure in India- The Way Forward' 2013

ThS. Lê Xuân Tùng

Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư Pháp

Bạn đang đọc bài viết Sự phát triển về quy định pháp luật của cơ chế giám sát ngân hàng trong khu vực EU tại chuyên mục Bài báo khoa học của Tạp chí Tài chính doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác:

email: [email protected], hotline: 086 508 6899

Tin liên quan