Tăng tự chủ, nâng hiệu quả: Mở lối cho doanh nghiệp nhà nước trong kỷ nguyên mới
TCDN - Trong bức tranh kinh tế đang chuyển động mạnh mẽ bởi chuyển đổi số, hội nhập sâu và yêu cầu quản trị hiện đại, doanh nghiệp nhà nước (DNNN) – với vai trò là lực lượng vật chất quan trọng của nền kinh tế – đang đứng trước bước ngoặt cải cách chiến lược.
Nắm giữ nguồn lực tài sản công lên tới hơn 7 triệu tỷ đồng, đóng góp gần 28% GDP cả nước nhưng chỉ chiếm khoảng 0,2% số lượng doanh nghiệp, DNNN thể hiện rõ vị thế lớn song hiệu quả lại chưa tương xứng. Những bất cập trong cơ chế đại diện chủ sở hữu, rào cản về thể chế, sự can thiệp hành chính và tư duy “xin - cho” kéo dài nhiều năm đã khiến khu vực này chậm bước trước làn sóng đổi mới và cạnh tranh toàn cầu.
Trước yêu cầu cấp bách phải nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn nhà nước, Quốc hội đã ban hành Luật Quản lý và Đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp (Luật số 68/2025/QH15), có hiệu lực từ ngày 1/8/2025. Đây không chỉ là một đạo luật mới mà còn là một đột phá về thể chế, định hình tư duy mới về trao quyền tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình cho DNNN. Luật tạo khuôn khổ pháp lý rõ ràng để doanh nghiệp nhà nước vận hành theo nguyên tắc thị trường, có năng lực cạnh tranh, thực thi sứ mệnh kinh tế – xã hội một cách minh bạch và hiệu quả.
Doanh nghiệp nhà nước - Trụ cột nhưng chưa xứng tầm trong nền kinh tế thị trường
DNNN hiện nắm giữ lượng tài sản công khổng lồ, với hơn 7 triệu tỷ đồng tổng tài sản, tương đương gần 25% tổng đầu tư của khu vực doanh nghiệp và đóng góp khoảng 28% GDP cả nước (Bộ Tài chính, 2024). Tuy nhiên, khu vực này chỉ chiếm khoảng 0,2% số lượng doanh nghiệp, phản ánh rõ sự tập trung nguồn lực nhưng hiệu quả mang lại chưa tương xứng.

Nhiều DNNN vẫn vận hành theo lối mòn cố điều hành, đầu tư ngoài ngành, thiếu tự chủ để thích ứng với đổi thủ kinh tế, kỹ thuật, chưa có động lực đổi mới sáng tạo. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp gặp khó trong bài toán về chức năng, vai trò trong cải cách, không rõ ràng giữa mô hình kinh doanh thị trường và nhiệm vụ chính trị, quá tình.
Gỡ điểm nghẽn thể chế để nâng hiệu quả doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) hiện giữ vai trò then chốt trong nền kinh tế với khối tài sản và nguồn lực công khổng lồ. Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động còn thấp, tỷ suất lợi nhuận trên vốn nhà nước nhiều năm dưới mức kỳ vọng. Nguyên nhân chủ yếu đến từ các điểm nghẽn thể chế kéo dài, mang tính hệ thống chưa được xử lý dứt điểm :
Đại diện vốn nhà nước thiếu thực quyền. Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (CMSC), thành lập năm 2018, được kỳ vọng là “siêu ủy ban” quản lý gần 2 triệu tỷ đồng vốn nhà nước tại 19 tập đoàn, tổng công ty. Tuy nhiên, theo Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Quốc hội (6/2025), CMSC chưa được trao đầy đủ quyền quyết định đầu tư, nhân sự và tái cơ cấu, mà vẫn phải xin ý kiến các bộ chủ quản hoặc Chính phủ trong nhiều quyết định then chốt. Điều này làm hạn chế tính chủ động và gây phân mảnh vai trò chủ sở hữu.
Cơ chế “xin – cho” làm triệt tiêu động lực thị trường. Hầu hết các quyết định lớn của DNNN – như đầu tư, bán tài sản, chia cổ tức – đều phải trình qua nhiều cấp phê duyệt. Thời gian trung bình để một quyết định thoái vốn được thực hiện mất từ 9–12 tháng. Theo báo cáo của Kiểm toán Nhà nước (2024), 50% dự án đầu tư của DNNN bị chậm tiến độ do ách tắc thủ tục phê duyệt, dẫn đến đội vốn và lãng phí nguồn lực.
Quản trị chưa đạt chuẩn quốc tế. Chỉ khoảng 35% DNNN áp dụng KPI rõ ràng, và chưa đến 20% có hệ thống ERP hoàn chỉnh, theo khảo sát của Bộ Tài chính (2025). Hội đồng thành viên và Ban điều hành tại nhiều doanh nghiệp chưa phân định rõ trách nhiệm, thiếu cơ chế giám sát độc lập. Trong khi đó, mô hình OECD đã khuyến nghị rõ về tách bạch điều hành – giám sát và trách nhiệm công khai minh bạch.
Đãi ngộ lãnh đạo kém hấp dẫn, không tạo động lực. Lương của Tổng giám đốc một tập đoàn nhà nước lớn (theo chế độ hiện hành) chỉ khoảng 60–80 triệu đồng/tháng, trong khi mức thị trường cho vị trí tương đương tại doanh nghiệp tư nhân là 200–400 triệu đồng/tháng. Cách bổ nhiệm hành chính, thiếu gắn kết với hiệu quả và thành tích thực tế khiến DNNN khó thu hút nhân sự chất lượng cao.
DNNN là lực lượng quan trọng, nhưng không thể vận hành hiệu quả nếu tiếp tục mang nặng tư duy hành chính. Cải cách thể chế quản trị không chỉ là bài toán kỹ thuật, mà là bước đi chiến lược để bảo vệ tài sản công, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và tăng tính cạnh tranh quốc gia. Việc sớm tháo gỡ các “nút thắt thể chế” sẽ là đòn bẩy then chốt để DNNN thực sự đóng vai trò dẫn dắt trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Luật Quản lý và Đầu tư vốn Nhà nước 2025: Tư duy thể chế mới, mô hình quản trị mới, kiến tạo động lực mới cho DNNN
Với việc Quốc hội thông qua Luật Quản lý và Đầu tư vốn Nhà nước tại doanh nghiệp năm 2025, một khuôn khổ pháp lý mới mang tính đột phá đã được thiết lập, thể hiện bước chuyển căn bản từ tư duy hành chính sang tư duy quản trị hiện đại. Luật không chỉ mở đường cho doanh nghiệp nhà nước (DNNN) vận hành theo nguyên tắc thị trường mà còn tái định hình vai trò của nhà nước với tư cách là nhà đầu tư chiến lược, không còn là “ông chủ can thiệp hành chính”. Ba thay đổi lớn sau đây là những mũi nhọn chính sách tạo đột phá:
Một là, tự chủ thực chất trao quyền để giải phóng năng lực doanh nghiệp.
Một trong những điểm đột phá quan trọng nhất của Luật 2025 là trao quyền tự chủ tài chính thực chất cho DNNN – từ quyết định lương, thưởng, phân phối lợi nhuận sau thuế, đến các hoạt động đầu tư, sáp nhập, mở rộng ngành nghề. Đây là sự chuyển đổi từ “cơ chế xin – cho” sang “khung khổ pháp luật minh bạch, có giới hạn nhưng không can thiệp vi mô”. Việc không phải “trình – duyệt” từng quyết định cụ thể, nếu nằm trong khung pháp lý đã ban hành, chính là một bước cải cách thể chế mạnh mẽ, tháo bỏ những rào cản vô hình bóp nghẹt tính chủ động và động lực phát triển của doanh nghiệp. DNNN giờ đây không còn là đơn vị thụ động thực hiện mệnh lệnh cấp trên, mà là chủ thể tự chịu trách nhiệm trong sử dụng hiệu quả đồng vốn nhà nước.
Hai là, gắn tự chủ với trách nhiệm giải trình và hiệu quả thực chất.
Tự chủ không thể tách rời trách nhiệm. Luật 2025 đã lần đầu tiên đưa ra các chỉ tiêu định lượng bắt buộc để đánh giá kết quả hoạt động DNNN, từ hiệu quả tài chính (như ROE, ROS), hiệu quả sử dụng vốn, đến các chỉ tiêu phi tài chính như tạo việc làm, bảo vệ môi trường, đóng góp cộng đồng. Mỗi doanh nghiệp đều phải được đánh giá bằng hệ thống KPI rõ ràng, định kỳ công khai, và gắn với chế tài xử lý nếu không hoàn thành nhiệm vụ. Từ đây, chân dung “người đứng đầu dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm” không còn là khẩu hiệu chính trị, mà được cụ thể hóa bằng cơ chế đánh giá định lượng và hệ quả rõ ràng. Đây chính là bước chuyển từ trách nhiệm tập thể mơ hồ sang trách nhiệm cá nhân rõ ràng, góp phần giảm thiểu tình trạng “làm dở, không ai chịu trách nhiệm”.
Ba là, mô hình DNNN phân loại rõ ràng, tránh chồng chéo vai trò và cơ chế điều hành.
Luật mới đã khắc phục một trong những bất cập lớn kéo dài nhiều năm: sự lẫn lộn vai trò giữa doanh nghiệp kinh doanh vì lợi nhuận và doanh nghiệp phục vụ mục tiêu công. Theo đó, DNNN được phân loại rõ theo ba nhóm chức năng chính: Nhóm 1 doanh nghiệp kinh doanh thuần túy (vận hành theo nguyên tắc thị trường , lấy lợi nhuận làm trọng tâm). Nhóm 2 doanh nghiệp công ích, hạ tầng (được đặt hàng dịch vụ công theo chi phí chuẩn, có hỗ trợ từ ngân sách nếu cần). Nhóm 3 doanh nghiệp phục vụ quốc phòng, an ninh (hoạt động theo quy chế riêng, tách biệt với cơ chế thị trường thông thường). Sự phân loại này giúp thiết kế cơ chế giám sát, đặt hàng, kiểm toán phù hợp với từng loại hình, đồng thời tránh tình trạng cùng một doanh nghiệp “vừa làm kinh doanh, vừa gánh nhiệm vụ công ích”, dẫn đến mâu thuẫn mục tiêu, khó đánh giá hiệu quả. Đây cũng là tiền đề để tái cấu trúc các tập đoàn, tổng công ty nhà nước theo mô hình chuẩn mực, chuyên nghiệp, tránh chồng chéo vai trò.
Luật Quản lý và Đầu tư vốn Nhà nước năm 2025 không chỉ là một văn bản pháp lý mới, mà là cột mốc trong cải cách thể chế doanh nghiệp nhà nước, giúp phá vỡ vòng luẩn quẩn của “quản lý kiểu hành chính – hiệu quả thấp – trách nhiệm mờ nhạt”. Việc trao quyền tự chủ gắn với trách nhiệm cụ thể, phân loại doanh nghiệp minh bạch, cùng khung đánh giá kết quả đầu tư rõ ràng sẽ tạo động lực để DNNN vươn lên cạnh tranh lành mạnh, sử dụng hiệu quả vốn công, và đóng vai trò kiến tạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Khung pháp lý mới: Đòn bẩy cho phát triển bền vững
Luật Quản lý và Đầu tư vốn nhà nước năm 2025 (Luật 68) sẽ không thể phát huy vai trò đòn bẩy cải cách nếu không được triển khai trong một môi trường chính sách đồng bộ, quản trị chuyên nghiệp và hạ tầng thể chế hiện đại. Để luật thực sự chuyển hóa thành động lực đổi mới DNNN, cần đảm bảo 5 điều kiện nền tảng có tính chất hệ thống sau:
Doanh nghiệp nhà nước phải trở thành “nhà đầu tư công chiến lược” đúng nghĩa
CMSC không chỉ là cơ quan đại diện chủ sở hữu, mà phải tái định vị thành “nhà đầu tư chiến lược” sử dụng vốn nhà nước với tầm nhìn dài hạn và tư duy thị trường. Điều này đòi hỏi chuyên nghiệp hóa đội ngũ – cả về chuyên môn đầu tư, quản trị tài chính và năng lực phân tích rủi ro. Đồng thời, CMSC cần được trao quyền giám sát và đánh giá hiệu quả vốn đầu tư như các quỹ tài sản có chủ quyền (sovereign wealth funds), qua đó thúc đẩy tính minh bạch, trách nhiệm và hiệu quả sử dụng nguồn lực công.
Chuẩn hóa hệ thống đánh giá hiệu quả dựa trên tiêu chuẩn tài chính và xã hội
Việc đánh giá hiệu quả hoạt động DNNN cần chuyển từ hình thức sang thực chất, dựa trên hệ thống chỉ tiêu đo lường được chuẩn hóa như: Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE), tỷ suất sinh lời trên doanh thu (ROS), suất sinh lợi nội tại (IRR), cùng các chỉ số đo lường tác động xã hội (KPI xã hội) như tạo việc làm, đổi mới công nghệ, phát triển vùng khó khăn... Quan trọng hơn, kết quả phải được công khai định kỳ, phản ánh trung thực hiệu quả kinh doanh và đóng góp của DNNN.
Thúc đẩy chuyển đổi số và xây dựng hệ sinh thái dữ liệu đầu tư
Việc giám sát và tối ưu hóa vốn nhà nước không thể hiệu quả nếu thiếu hạ tầng dữ liệu số hiện đại. Cần xây dựng hệ thống quản trị tập trung trên nền tảng ERP tích hợp, ứng dụng công nghệ AI, Big Data và Blockchain để theo dõi dòng vốn, phân tích hiệu quả đầu tư, kiểm soát rủi ro và phát hiện sai lệch theo thời gian thực. Đây là nền tảng quan trọng giúp CMSC và các cơ quan quản lý ra quyết định dựa trên dữ liệu, không phải cảm tính.
Cách mạng nhân sự và kiến tạo hệ thống quản trị nhân tài quốc doanh
Nguồn lực con người là đòn bẩy then chốt cho mọi cải cách. DNNN cần từ bỏ mô hình “tuyển dụng kiểu công chức” để hướng tới hệ thống nhân sự theo nguyên tắc thị trường: công khai – minh bạch – cạnh tranh. Bên cạnh đó, cần áp dụng chế độ hợp đồng trách nhiệm, lương thưởng theo kết quả và cơ chế thu hút nhân tài trong và ngoài nước, đặc biệt trong các lĩnh vực then chốt như công nghệ cao, tài chính, logistics, năng lượng...
Đồng bộ hóa pháp lý và triệt để cắt giảm rào cản hành chính
Một trong những rào cản lớn nhất đối với hiệu quả đầu tư công là sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các luật như: Luật Đầu tư công, Luật Doanh nghiệp, Luật Đất đai, Luật Đấu thầu... Vì vậy, cần khẩn trương rà soát, sửa đổi đồng bộ theo hướng gỡ bỏ nút thắt pháp lý, đảm bảo DNNN được trao đủ quyền tự chủ gắn với cơ chế giám sát rõ ràng. Cùng với đó là xóa bỏ can thiệp hành chính mang tính xin – cho, để thị trường quyết định hiệu quả đầu tư và phân bổ nguồn lực.
Luật 68 chỉ có thể trở thành động lực cải cách nếu được triển khai trong một hệ sinh thái thể chế – quản trị – công nghệ đồng bộ. Cần nhìn nhận luật không chỉ là công cụ quản lý, mà là cơ chế kiến tạo động lực phát triển cho khối doanh nghiệp giữ vai trò then chốt của nền kinh tế. Khi “luật hóa” đi liền với “thể chế hóa”, khi “trao quyền” gắn liền với “trách nhiệm giải trình”, khi “số hóa” song hành với “minh bạch hóa”, thì vốn nhà nước mới thực sự trở thành động lực kiến tạo tăng trưởng bền vững cho nền kinh tế Việt Nam.
Luật Quản lý và Đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp từ khát vọng cải cách đến hành động quyết liệt là bước ngoặt tư duy trong chính sách kinh tế của Việt Nam. Song, để chuyển đổi thành sự thay đổi thực chất, rất cần quyết tâm chính trị từ trung ương đến địa phương, sự nhập cuộc đồng bộ của DNNN, và trên hết là tư duy dám trao quyền và dám chịu trách nhiệm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quốc hội (2025), Luật Quản lý và Đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Luật số 68/2025/QH15, ban hành ngày 27/6/2025.
2. Bộ Tài chính (2024), Báo cáo tổng hợp tình hình tài chính và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước năm 2023, Hà Nội.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2024), Sách trắng Doanh nghiệp Việt Nam năm 2024, NXB Thống kê.
4. Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp (CMSC) (2023), Báo cáo kết quả giám sát đầu tư vốn và hiệu quả hoạt động của DNNN giai đoạn 2020–2022, Hà Nội.
5. Ban Kinh tế Trung ương (2024), Tổng kết 20 năm đổi mới cơ chế hoạt động doanh nghiệp nhà nước và định hướng đến năm 2030, Tài liệu hội thảo cấp cao.
6. OECD (2015), OECD Guidelines on Corporate Governance of State-Owned Enterprises, Paris.
7. WB & IMF (2023), Vietnam Public Financial Management Review, Washington DC.
8. UNDP Việt Nam (2022), Strengthening Governance and Efficiency of State-Owned Enterprises in Vietnam, Báo cáo chính sách.
PGS.TS Ngô Trí Long, Chuyên gia Kinh tế
email: [email protected], hotline: 086 508 6899