Thấp, chậm và đang tụt dốc
TCDN -
|
Những so sánh các chỉ số thống kê như năng suất lao động (NSLĐ) của 23 người người Việt mới bằng một người Singapore đã không còn làm nhiều người giật mình nữa bởi đó đã là chuyện “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”. Ông Vũ Quang Thọ, Viện Trưởng Viện Công nhân - Công đoàn lắc đầu khi nói về NSLĐ ở Việt Nam: “Trước đây xem bóng đá giữa đội tuyển Việt Nam và đội tuyển Thái-lan, tỷ số thường là 4-0, 4-1 nghiêng về Thái-lan, thì NSLĐ của nước ta so với Thái-lan và nhiều nước trong khu vực cũng như tỷ số bóng đá vậy”... |
|
Năng suất lao động chỉ bằng 1/3 Thái-lan và thua Lào So sánh của ông Thọ không có gì khập khiễng nếu nhìn vào những con số thống kê mới đây của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) và một số tổ chức Việt Nam. Theo đó, vào năm 2015, NSLĐ của Việt Nam đạt 3.660 USD, chưa bằng 5% của Singapore, chưa tới 20% của Malaysia, bằng khoảng 1/3 của Thái-lan, và chưa đạt 50% của Philippines và Indonesia. Cụ thể, phải ba lao động Việt mới làm ra giá trị bằng một người Thái-lan, và sáu lao động mới bằng một người Malaysia. Ông Nguyễn Anh Tuấn, Trưởng phòng Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chia sẻ thêm, nếu duy trì năng suất này thì 50 năm nữa Việt Nam mới bằng Thái-lan bây giờ. Còn nếu tăng gấp đôi hiện tại thì con số này hạ xuống 13 đến14 năm. NSLĐ đã thấp lại có sự chênh lệnh giữa các ngành. Theo Viện Năng suất Việt Nam, các ngành công nghiệp có năng suất cao bao gồm: năng lượng, thép, hóa chất (từ 450 triệu đến 1 tỷ đồng/người/năm). Nhóm ngành có NSLĐ thấp là dệt may, da giày. Nhóm ngành công nghiệp đã sử dụng máy móc hiện đại và lao động tay nghề cao, trong khi ngành dệt may da giày vẫn đang thâm dụng lao động giá rẻ, trình độ thấp. Có sự khác biệt về NSLĐ giữa các công ty may, thậm chí là giữa các nhà máy, các phân xưởng trong một công ty. Ông Nguyễn Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Năng suất Việt Nam cho biết: “Cùng một công đoạn nhưng năng suất của công ty này chỉ bằng 50% của một công ty khác. Thực tế triển khai những dự án cải tiến về năng suất tại các công ty may cho thấy, trong sáu tháng là có thể giúp cải tiến từ 10 đến15%. Thậm chí, nếu chọn đúng các giải pháp có thể đạt được cao hơn, từ 20 đến 30%”. Các chuyên gia về năng suất đưa ra một nhận định giật mình: Trong năm năm (từ 2011-2015), NSLĐ của ngành dệt may, da giày gần như không thay đổi, chỉ đạt 76 triệu đồng/người/năm. NSLĐ thấp và hầu như dẫm chân tại chỗ nhưng vì sao kinh tế trong giai đoạn này vẫn tăng trưởng với tốc độ cao? Theo các chuyên gia kinh tế, mặc dù có tốc độ tăng cao hơn trung bình ASEAN nhưng NSLĐ của Việt Nam thời kỳ từ năm 1996 - 2000 chủ yếu là chuyển dịch giữa ngành có giá trị gia tăng thấp, sang ngành có giá trị gia tăng cao, chuyển dịch cơ cấu ngành từ nông nghiệp sang công nghiệp dịch vụ. Sau năm 2000 đến 2010, tăng NSLĐ dựa vào chủ yếu gia tăng các ngành khai khoáng, quá trình công nghiệp hóa, gia công lắp ráp và xuất khẩu nguyên liệu thô sơ. Từ năm 2010 đến nay, tăng trưởng của NSLĐ dựa vào sự chuyển dịch tĩnh tiếp theo của quá trình chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Cuộc dịch chuyển lao động, cơ cấu ngành thứ hai đã và đang khiến gia tăng NSLĐ tiếp theo. Tuy nhiên, theo đánh giá thì các cuộc chuyển dịch lao động mới chỉ theo chiều rộng, chiều ngang chứ chưa theo chiều sâu. NSLĐ vẫn chủ yếu dựa vào gia tăng khai khoáng, gia công chưa gia tăng giá trị sáng tạo, hàm lượng chất xám, công nghệ... Việt Nam đã và đang đứng trước nguy cơ tốc độ tăng trưởng NSLĐ thấp, hẹp và không gia tăng được so với các thời kỳ trước do mô hình tăng trưởng vẫn dựa vào tài nguyên, lao động và thâm dụng vốn FDI. So với các nước lân cận, trong khi NSLĐ của Việt Nam đã bị bỏ rất xa, thì tốc độ tăng năng suất còn thể hiện sự quan ngại hơn khi chỉ bằng 1/2 Trung Quốc. Trong giai đoạn 1992 - 2014, tốc độ tăng năng suất của Việt Nam ở mức 4,64%/năm, trong khi tốc độ này ở Trung Quốc là 9,07%/năm. Theo thông báo của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), tại khu vực Đông-Nam Á, NSLĐ của Việt Nam đã thua Lào, chỉ còn cao hơn Myanmar và Campuchia. Vì sao năng suất lao động thấp ? Có nhiều nguyên nhân để lý giải vì sao NSLĐ ở Việt Nam vẫn thấp lè tè và tăng với tốc độ rùa bò như trình độ công nghệ thấp, lạc hậu. Theo báo cáo chỉ số đổi mới toàn cầu mới đây của Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO), chỉ số đổi mới công nghệ Việt Nam đứng thứ 71/143 nền kinh tế, đứng thứ 4 ở ASEAN, tuy nhiên việc nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ còn nhiều hạn chế. Có đến hơn một nửa doanh nghiệp đang sử dụng công nghệ thấp. Điều này phản ánh sự tụt hậu xa của Việt Nam về năng lực cạnh tranh công nghệ. Chẳng hạn như ở ngành than, khai thác lộ thiên đã được cơ giới hóa, nhưng ở cơ giới hầm lò, khâu chiếm hơn nửa sản lượng thì tỷ lệ cơ giới hóa rất thấp, chỉ 2%. Nhiều công đoạn trong sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn khá thô sơ, tốn nhiều nhân công. Như ngành điện vẫn sử dụng nhiều nhân lực để đo số công tơ trong khi nhiều nước trong khu vực đã hiện đại hóa quy trình, đo đếm lượng điện năng tiêu thụ của khách hàng bằng công tơ điện tử, chuyển dữ liệu từ xa về trung tâm và kiểm tra thông tin hàng ngày, thậm chí hàng giờ qua hóa đơn điện tử. Tập đoàn Điện lực Việt Nam lý giải NSLĐ thấp là do đang dư thừa lao động, nhất là ở các chi nhánh điện. Bên cạnh đó, một số tổ chức quốc tế đánh giá: 80% nhân viên văn phòng ở Việt Nam thiếu kỹ năng, tỷ lệ này ở lao động kỹ thuật, lao động phổ thông là 83% và 40%. Bà Nicola Connolly, Chủ tịch Phòng Thương mại châu Âu tại Việt Nam từng phàn nàn trong một cuộc Hội thảo về chính sách tiền lương rằng lao động Việt Nam quá thiếu kỹ năng mềm phục vụ công việc, hầu như các doanh nghiệp châu Âu phải đào tạo lại trước khi sử dụng. NSLĐ chưa cao cũng có nguyên nhân từ chế độ tiền lương, đãi ngộ còn thấp. Chính chế độ lương thấp và cào bằng dẫn đến người lao động không có động lực phát triển. ILO chỉ ra rằng những nước có NSLĐ cao thường là những nước có mức lương cho người lao động cao. Đây là hai yếu tố có quan hệ tỷ lệ thuận với nhau. Ông Vũ Quang Thọ, Viện trưởng Viện Công nhân - Công đoàn nhấn mạnh: “Hiện tại, Việt Nam vẫn là một trong những nước có mức lương tối thiểu thấp. Khi tiền lương đáp ứng nhu cầu sống tối thiểu của người lao động mới bàn đến NSLĐ. Nếu không bàn về NSLĐ, chúng ta khó có cơ hội để tăng lương. Có người còn đưa ra lý thuyết về quả trứng hay con gà có trước. Nhưng tôi nghĩ, ở một giai đoạn nào đó, nhu cầu của chúng ta còn thấp hơn mức sống tối thiểu thì nhất quyết chúng ta phải giải quyết vấn đề quả trứng trước”. Theo ILO, Việt Nam chỉ có tới 1/3 số lao động có việc làm được hưởng lương. Tỷ lệ này khá thấp so với mức trung bình trên thế giới là khoảng 50%. Ngành nông nghiệp chiếm một nửa lao động nhưng tỷ lệ lao động làm công ăn lương chỉ chiếm 10% trong tổng số lao động làm công ăn lương của Việt Nam. Trong khi đó, khả năng tích luỹ để tái đầu tư thấp dẫn đến các doanh nghiệp Việt Nam chưa tham gia đầy đủ các khâu của chuỗi sản xuất/ giá trị hàng hóa, do đó giá trị gia tăng chưa cao. NSLĐ thấp do hệ quả của nền kinh tế quy mô nhỏ lẻ, 60% số lực lượng lao động làm việc ở những doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ và khu vực kinh tế phi chính thức. Kinh tế nhà nước thu hút hơn 70% số lao động nhưng NSLĐ ở khu vục này chỉ bằng hơn 50% so với NSLĐ chung của cả nước, bằng 11% so với NSLĐ của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. NSLĐ thấp cũng có nguyên nhân vừa sâu xa, vừa trực tiếp từ chất lượng nguồn nhân lực thấp. Theo ILO, hiện 80% số lao động Việt Nam là lao động phổ thông, trình độ thấp. Phần lớn người lao động trải qua quá trình đào tạo chưa thật sự phù hợp với những yêu cầu chung của khu vực và thế giới. Chất lượng nguồn nhân lực thấp, lại không được hoặc không có khả năng tiếp cận các công cụ, trang thiết bị hiện đại. Ông Nguyễn Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Năng suất Việt Nam chỉ rõ: “Nhiều chủ doanh nghiệp cho rằng quyết định của mình là trên hết, không tạo được động lực cho họ phát triển những sáng kiến cải tiến. Thậm chí, nhiều doanh nghiệp, thay vì đề cao, lại vùi dập thành quả cải tiến của người lao động”. |
email: [email protected], hotline: 086 508 6899










