Thủ tướng: Tiềm lực trong mỗi người Việt rất lớn

07/08/2019, 23:30

TCDN - Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho rằng, nguyên nhân khiến NSLĐ chưa cao một phần vì các điểm nghẽn về thể chế kinh tế

NQH01667

“Chỉ số năng suất lao động tại Việt Nam chưa cao do xuất phát điểm thấp nhưng tiềm lực trong mỗi người dân của chúng ta rất lớn. Tôi mong muốn cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân, nhà đầu tư và các tầng lớp hãy kề vai sát cánh, chung sức đồng lòng, cùng nhau tạo nên một cuộc bứt phá mới trong năng suất lao động”.

Phát biểu trên được Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đưa ra tại Hội nghị về cải thiện năng suất lao động quốc gia, ngày 7/8.

Mức tăng năng suất lao động ở mức cao

Theo Thủ tướng, tính năng suất lao động (NSLĐ) theo cách lấy GDP chia cho tổng số lao động thì con số này của Việt Nam còn thấp. Tuy nhiên, Thủ tướng dẫn lời của GS. Michael Porter, cha đẻ của lý thuyết năng lực cạnh tranh quốc gia, nêu rõ “chúng ta phải hiểu đầy đủ rằng năng suất sử dụng các nguồn lực bao gồm vốn, lao động, đất đai và các tài nguyên khác, trong đó đặc biệt là năng suất của lao động đóng vai trò trung tâm, vì đây là thước đo chính xác nhất và có ý nghĩa duy nhất cho năng lực cạnh tranh, mặc khác đây là nhân tố quyết định sự thịnh vượng của các quốc gia”.

Chỉ số NSLĐ tại Việt Nam chưa cao do xuất phát điểm thấp nhưng “tiềm lực trong mỗi người dân của chúng ta rất lớn”. Điều này thể hiện mức tăng NSLĐ của Việt Nam cao hơn nhiều so với các nước ASEAN cũng như nhiều nước trên thế giới. Cụ thể, năm 2018, tốc độ tăng NSLĐ khoảng 6% so với năm 2017. Bình quân giai đoạn 2016 – 2018 tăng 5,8%.

Thủ tướng dẫn phân tích của IMF cho biết tăng trưởng năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) của Việt Nam từ sau đổi mới đến nay cho thấy tăng trưởng TFP từ năm 2013 đến nay đã tăng lên đáng kể, đạt mức tăng bình quân 1,7%.  Trong 5 năm qua, tăng trưởng TFP luôn đạt mức trên 1,5%, mức khá cao kể từ sau khủng hoảng tài chính châu Á 1997. Các phân tích hồi quy cho thấy, động lực chính của tăng trưởng TFP đi cùng với sự gia tăng dòng vốn FDI, giảm lao động làm việc trong nông nghiệp và tăng cường đầu tư của khu vực tư nhân trong nước. Những cải cách theo hướng này trong giai đoạn tới sẽ giúp thúc đẩy tăng trưởng TFP mạnh mẽ hơn nữa.

“Chúng ta có một niềm tin là chúng ta đang đi đúng hướng”, Thủ tướng nói. 

Với các động lực đang cải cách đó, tăng trưởng TFP giai đoạn 2018-2023 kỳ vọng đạt mức bình quân từ 1,8% trở lên, cao hơn nhiều so với bất kỳ giai đoạn tăng trưởng kinh tế nào của Việt Nam kể từ sau đổi mới (năm 1986).

“Đấy là chưa nói anh lấy GDP để chia cho số người lao động nhưng GDP của anh còn bỏ sót nhiều, chưa tính đầy đủ”, Thủ tướng nói và cho biết vừa qua, Tổng cục Thống kê với sự giúp đỡ của IMF đã tính lại GDP năm 2017, dự kiến chỉ số NSLĐ sẽ cao hơn. Bên cạnh đó, về cơ cấu lao động thì lao động nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao (hiện khoảng 37%), cộng với số lao động thời vụ, làm cho số lao động rất cao, là mẫu số lớn trong phép tính NSLĐ.

Thủ tướng cũng chỉ ra nguyên nhân khiến NSLĐ chưa cao một phần vì các điểm nghẽn về thể chế kinh tế. Trình độ, kỹ năng nguồn nhân lực còn thấp. Thiếu nhân lực kỹ năng cao, đặc biệt là kỹ năng mới nổi của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nền kinh tế số. Động cơ sáng tạo đổi mới còn thiếu và yếu.

Với phân tích đó, Thủ tướng nêu các định hướng lớn để thúc đẩy tăng NSLĐ mà đầu tiên là phải cải cách thể chế để khắc phục “nút thắt” ở trên. Nâng cao năng lực quản trị Nhà nước, năng lực cạnh tranh quốc gia, nâng cấp chất lượng môi trường kinh doanh, xây dựng cơ chế để mọi lao động được trao cơ hội, qua đó có thể phát huy tối đa năng lực của mình, đóng góp vào sự thịnh vượng chung của nền kinh tế và xã hội.

Một hướng quan trọng để giải bài toán năng suất hiện nay là thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, từ lao động giản đơn sang lao động có kỹ năng. Ngoài ra, cải cách khu vực tài chính ngân hàng để dòng vốn chảy vào khu vực có năng suất cao nhất.

Cần cải cách mạnh mẽ và nhanh hơn nữa khu vực doanh nghiệp Nhà nước để khơi thông và giải phóng các nguồn lực cho phát triển, thúc đẩy, hỗ trợ khu vực tư nhân và các khu vực khác như hợp tác xã trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Đặc biệt là khuyến khích tinh thần khởi nghiệp sáng tạo.

Tiếp tục thu hút FDI một cách có chọn lựa, ưu tiên các dự án sử dụng nguồn lực chất lượng cao để cùng với khu vực kinh tế trong nước nâng cấp nền sản xuất, tăng năng suất chung của nền kinh tế.

Thủ tướng nhấn mạnh định hướng tiếp tục hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, tham gia vào các dòng chảy thương mại và đầu tư quốc tế, các chuỗi giá trị toàn cầu, biến các dòng chảy đó trở thành lực đẩy cho các cải cách, nâng cao năng lực cạnh tranh và năng suất quốc gia.

Cũng tại hội nghị, Thủ tướng đã nêu 6 nhóm nhiệm vụ trọng tâm để cải thiện NSLĐ ở Việt Nam, trong đó nhấn mạnh đến việc phải thiết lập một cơ chế khuyến khích đủ mạnh để thu hút những người tài năng, các chuyên gia giỏi, các nhà quản lý xuất sắc đến với Việt Nam, đặc biệt là người Việt Nam nói chung, các tài năng Việt Nam đang ở nước ngoài nói riêng, trong đó có du học sinh của Việt Nam.

“Người Việt Nam có câu ‘Một người lo bằng một kho người làm”, năng suất ở đó chứ ở đâu nữa. Người tài bao giờ cũng giải quyết được nhiều vấn đề trong xã hội và trong đó giải quyết vấn đề năng suất rất là căn bản”, Thủ tướng nói.

Việt Nam phải đối mặt với thách thức lớn

Trước đó, tại hội nghị, Tổng cục trưởng Tổng cục thống kê Nguyễn Bích Lâm cho biết, tính đến năm 2018, chỉ số năng suất lao động xã hội của nước ta đạt 102,2 triệu đồng/1 lao động, tương đương 4.521 USD/1 lao động (theo giá hiện hành), cao hơn gần gấp đôi so với năm 2011, tăng bình quân 4,88%/năm giai đoạn 2011-2018, riêng giai đoạn 2016-2018 tăng bình quân 5,77%/năm, giúp Việt Nam trở thành quốc gia có tốc độ tăng năng suất lao động cao trong khu vực ASEAN (Singapore là 1,4%/năm; Malaysia là 2%/năm; Thái Lan là 3,2%/năm; Indonesia là 3,6%/năm; Phillipines là 4,4%/năm).

Tuy nhiên, xét ở khía cạnh giá trị so sánh với các nước trong khu vực, năng suất lao động của nước ta vẫn ở mức thấp. Nếu tính theo giá trị sức mua tương đương (PPP) năm 2018, năng suất lao động nước ta đạt 11.142 USD thì chỉ bằng 7,3% năng suất lao động của Singapore; 19% của Malaysia; 37% của Thái Lan; 44,8% của Indonesia; 55,9% của Phillipines.

Ông Lâm cho rằng, điều này cho thấy nền kinh tế Việt Nam sẽ phải đối mặt với thách thức rất lớn trong thời gian tới để có thể bắt kịp mức năng suất lao động của các nước.

“Hơn bao giờ hết, việc cải thiện năng suất lao động của nước ta là nhiệm vụ cốt lõi, cấp thiết và có ý nghĩa hết sức quan trọng, ý nghĩa sống còn nhằm thúc đẩy tăng trưởng, vượt qua bẫy thu nhập trung bình, tránh tụt hậu, thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước trên thế giới”, ông Nguyễn Bích Lâm nói.

Hải Tiến
Bạn đang đọc bài viết Thủ tướng: Tiềm lực trong mỗi người Việt rất lớn tại chuyên mục Tin tức của Tạp chí Tài chính doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác:

email: [email protected], hotline: 086 508 6899

Bình luận