VTCA: 4 góp ý đối với chính sách thuế, hải quan
TCDN -

Bà Nguyễn Thị Cúc, Chủ tịch Hội Tư vấn Thuế Việt Nam (VTCA)
Theo bà Nguyễn Thị Cúc, Chủ tịch Hội Tư vấn Thuế Việt Nam (VTCA), phần lớn doanh nghiệp, người nộp thuế đều cảm nhận được tinh thần quyết tâm đổi mới của ngành Tài chính, nổi bật là việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý thuế.
Triển khai ứng dụng hóa đơn điện tử có mã xác thực của cơ quan thuế tại các tỉnh, thành phố lớn cũng như quy định mới về hóa đơn điện tử áp dụng rộng rãi, tiến đến bắt buộc là bước chuyển lớn, đột phá trong tiến trình cải cách công tác quản lý thuế. Bên cạnh đó, các nội dung liên quan đến Luật Quản lý thuế sửa đổi do Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế tổ chức lấy ý kiến vừa nâng cao hiệu quả, hiệu lực của công tác thuế, vừa đảm bảo nâng cao tính tuân thủ và thuận lợi hơn cho người nộp thuế.
Tuy nhiên, vẫn còn một số khó khăn trong thực hiện, đề nghị Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế sớm nghiên cứu xử lý để tháo gỡ vướng mắc cho doanh nghiệp. Cụ thể:
Một là, hoàn thuế GTGT đối với dự án đầu tư
Theo quy định tại Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế Giá trị gia tăng (GTGT), Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Quản lý thuế (Luật số 106/2016/QH13), từ ngày 01/7/2016, doanh nghiệp không được hoàn thuế GTGT với hàng sản xuất, kinh doanh nội địa, chỉ hoàn thuế đối với dự án đầu tư và hàng hóa dịch vụ xuất khẩu. Cụ thể:
Khoản 3, Điều 1 Luật số 106/2016/QH13 nêu rõ: “Trường hợp cơ sở kinh doanh đã đăng ký nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ có dự án đầu tư mới, đang trong giai đoạn đầu tư có số thuế giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ mua vào sử dụng cho đầu tư mà chưa được khấu trừ và có số thuế còn lại từ 300 triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế giá trị gia tăng”.
Nghị định số 100/2016/NĐ-CP hướng dẫn, cơ sở kinh doanh được hoàn thuế đối với dự án đầu tư như sau: “Cơ sở kinh doanh mới thành lập từ dự án đầu tư đã đăng ký kinh doanh, đăng ký nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ, hoặc dự án tìm kiếm thăm dò và phát triển mỏ dầu khí đang trong giai đoạn đầu tư, chưa đi vào hoạt động, nếu thời gian đầu tư từ 01 năm trở lên thì được hoàn thuế giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho đầu tư theo từng năm, trừ trường hợp quy định tại điểm c khoản này. Trường hợp, nếu số thuế giá trị gia tăng lũy kế của hàng hóa, dịch vụ mua vào sử dụng cho đầu tư từ 300 triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế giá trị gia tăng.
Trường hợp dự án đầu tư của cơ sở kinh doanh đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thanh tra, kiểm tra, kiểm toán thì cơ quan thuế có thể sử dụng kết quả thanh tra, kiểm tra, kiểm toán để quyết định việc hoàn thuế giá trị gia tăng và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình".
Thông tư 130/2016/TT-BTC quy định, trường hợp cơ sở kinh doanh đang hoạt động thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ có dự án đầu tư mới tại địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khác với tỉnh, thành phố nơi đóng trụ sở chính, đang trong giai đoạn đầu tư chưa đi vào hoạt động, chưa đăng ký kinh doanh, chưa đăng ký thuế thì cơ sở kinh doanh lập hồ sơ khai thuế riêng cho dự án đầu tư đồng thời phải kết chuyển thuế GTGT đầu vào của dự án đầu tư để bù trừ với việc kê khai thuế GTGT của hoạt động sản xuất kinh doanh đang thực hiện.
Số thuế GTGT được kết chuyển của dự án đầu tư tối đa bằng số thuế GTGT phải nộp của hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ của cơ sở kinh doanh.
Sau khi bù trừ nếu số thuế GTGT đầu vào của dự án đầu tư mới chưa được khấu trừ hết từ 300 triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế GTGT cho dự án đầu tư.
Sau khi bù trừ nếu số thuế GTGT đầu vào của dự án đầu tư mới chưa được khấu trừ hết nhỏ hơn 300 triệu đồng thì kết chuyển vào số thuế GTGT đầu vào của dự án đầu tư của kỳ kê khai tiếp theo.
Như vậy, hướng dẫn tại Thông tư 130/2016/TT-BTC là hoàn toàn phù hợp với điều kiện thực tế và khuyến khích doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, hiện việc không được hoàn thuế đối với doanh nghiệp có dự án đầu tư nhưng đã có doanh thu của hoạt động sản xuất, kinh doanh, gây bất cập, khó khăn.
Hai là, mức khống chế tổng chi phí lãi vay phát sinh trong kỳ của người nộp thuế được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN không vượt quá 20% của tổng lợi nhuận thuần từ hoạt động cộng với chi phí lãi vay, chi phí khấu hao trong kỳ của người nộp thuế
Về nội dung này Tổng cục Thuế có công văn số 3191/TCT-TT ngày 17/8/2018 trả lời VTCA. Trong đó nêu rõ: “Khoản 3 Điều 8, Nghị định 20/2017/NĐ-CP quy định, Tổng chi phí lãi vay phát sinh trong kỳ của người nộp thuế được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN không vượt quá 20% của tổng lợi nhuận thuần từ hoạt động cộng với chi phí lãi vay, chi phí khấu hao trong kỳ của người nộp thuế. Người nộp thuế kê khai tỷ lệ chi phí lãi vay trong kỳ tính thuế theo Mẫu số 01”.
Thông tư số 41/2017/TT-BTC ngày 28/4/2017 hướng dẫn mẫu 01 như sau: Chỉ tiêu chi phí lãi vay - ghi giá trị cho phí lãi vay tính vào chi phí tài chính trong kỳ; Cột 3,4,5: để trống không khai; Cột 6: Ghi tổng giá trị theo xác định tại hồ sơ xác định giá giao dịch liên kết, theo thỏa thuận trước về phương pháp xác định giá tính thuế (APA) đối với giao dịch phát sinh với các bên liên kết và giá trị ghi tại sổ kế toán đối với giao dịch phát sinh với các bên độc lập.
Đồng thời Tổng cục Thuế có công văn số 3790/TCT-DNL ngày 05/10/2018 trả lời kiến nghị của các doanh nghiệp liên quan đến việc thực hiện Nghị định số 20/2017/ NĐ-CP. Theo đó, “Tổng chi phí lãi vay phát sinh trong kỳ của người nộp thuế được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN không vượt quá 20% của tổng lợi nhuận thuần từ hợp đồng kinh tế cộng với chi phí lãi vay, chi phí khấu hao trong kỳ của người nộp thuế, không áp dụng với người nộp thuế là đối tượng áp dụng của Luật các tổ chức tín dụng và Luật kinh doanh bảo hiểm”. Tổng mức chi phí lãi vay của người nộp thuế được trừ theo quy định tại khoản 3 Điều 8 Nghị định số 20/2017/NĐ-CP được tính trên tổng chi phí lãi vay phát sinh trong kỳ, không phân biệt lãi vay phát sinh với bên liên kết hay bên độc lập.
Tuy nhiên, tỷ lệ này chưa áp dụng với các doanh nghiệp không có quan hệ liên kết dẫn đến thiếu bình đẳng. Các tập đoàn, công ty mẹ con thuộc doanh nghiệp Việt Nam có cùng thuế suất thuế TNDN cũng bị mức khống chế là chưa phù hợp. Chỉ riêng tại một nhà máy thuộc Tập đoàn than, chi phí lãi tiền vay vượt mức khống chế 20% lên tới trên 100 tỷ đồng.
Đề nghị, cơ quan Thuế nghiên cứu sửa đổi, có thể trước mắt chưa áp dụng với những đơn vị có cùng mức thuế suất thuế TNDN.
Ba là, kê khai nộp thuế TNCN. Theo quy định của Luật thuế TNCN và các văn bản hướng dẫn, thuế TNCN từ tiền lương tiền công của người lao động được doanh nghiệp, cơ quan trả thu nhập cho người lao động tạm khấu trừ hàng tháng trước khi chi trả thu nhập cho người lao động. Doanh nghiệp tạm nộp theo tháng, hoặc theo quý theo thực tế thu nhập và thực hiện quyết toán thuế năm.
Tuy nhiên, những tháng, quý đầu năm người lao động có thu nhập cao do nhận lương tháng thứ 13 của năm trước, tiền thưởng cuối năm, tết dương lịch, âm lịch, phải kê khai và nộp thuế TNCN của tháng đó, quý đó theo mức thuế suất cao. Các tháng, quý tiếp theo thu nhập thấp, nhiều trường hợp không phát sinh thuế TNCN phải nộp nhưng doanh nghiệp không được bù trừ thu nhập bình quân của các tháng, quý để tính thuế mà phải chờ đến ngày 31/3 năm sau, khi công ty quyết toán thuế TNCN mới được hoàn trả, bù trừ tiền thuế TNCN đã nộp từ những tháng quý đầu năm.
Vấn đề này gây bất cập vì doanh nghiệp, cá nhân chậm nộp tiền thuế sẽ bị tính tiền chậm nộp, bị phạt. Nhưng trong trường hợp cá nhân nộp thừa tiền thuế cho NSNN, năm sau mới được bù trừ, hoàn. Đề nghị cho phép tính bình quân thu nhập các tháng quý để khai, nộp thuế TNCN, tránh thiệt thòi cho người lao động.
Bốn là, áp dụng hóa đơn điện tử
Nghị định 119/2018/NĐ-CP đã gia hạn hiệu lực của các Nghị định về hóa đơn hiện hành và quy định xử lý chuyển tiếp. Theo đó, trong thời gian từ ngày 01/11/2018 đến ngày 31/10/2020, Nghị định số 51/2010/ NĐ-CP và Nghị định số 04/2014/ NĐ-CP về hóa đơn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ vẫn còn hiệu lực thi hành. Kể từ ngày 01/11/2020, các nghị định này hết hiệu lực thi hành.
Như vậy, kể từ ngày Nghị định 119/2018/NĐ-CP có hiệu lực thi hành, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế đã thông báo phát hành hóa đơn điện tử không có mã của cơ quan thuế hoặc đã đăng ký áp dụng hóa đơn điện tử có mã của cơ quan thuế trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành, được tiếp tục sử dụng hóa đơn điện tử đang sử dụng.
Doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, hộ, cá nhân kinh doanh đã thông báo phát hành hóa đơn đặt in, hóa đơn tự in, hoặc đã mua hóa đơn của cơ quan thuế để sử dụng trước ngày Nghị định 119/2018/NĐ-CP có hiệu lực thi hành, được tiếp tục sử dụng hóa đơn đặt in, hóa đơn tự in, hóa đơn đã mua đến hết ngày 31/10/2020 và thực hiện các thủ tục về hóa đơn theo quy định tại Nghị định số 51/2010/NĐ-CP và Nghị định số 04/2014/NĐ-CP.
Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, hộ, cá nhân kinh doanh sau ngày 01/11/2018 hết hóa đơn cũ nhưng chưa thể áp dụng theo Nghị định 119/2018/NĐCP. Ví dụ tại thời điểm hết hóa đơn cũ nhưng chưa có Thông tư hướng dẫn Nghị định 119/2018/NĐ-CP, doanh nghiệp phải tiếp tục thông báo phát hành hóa đơn mới để phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh. Nhưng việc phát hành thông báo hóa đơn mới sau ngày 01/11/2018 chưa được hướng dẫn gây khó khăn cho doanh nghiệp.
Gần đây Tổng cục thuế có một số công văn trả lời doanh nghiệp, địa phương về việc thực hiện hóa đơn điện tử theo Nghị định số 119/2018/ NĐ-CP. Trong đó hướng dẫn: “Trong thời gian từ ngày 01/11/2018 đến ngày 31/10/2020, Nghị định số 51/2010/NĐ-CP và Nghị định số 04/2014/NĐ-CP vẫn còn hiệu lực thi hành”.
Theo đó, trường hợp kể từ ngày 11/1/2018 đến ngày 31/10/2020, doanh nghiệp sử dụng hết hóa đơn đặt in đã thông báo phát hành và vẫn có nhu cầu sử dụng tiếp hóa đơn đặt in phù hợp với điều kiện thực tế của doanh nghiệp sẽ tiếp tục áp dụng hóa đơn đặt in theo quy định tại Nghị định số 51/2010/NĐ-CP, Nghị định số 04/2014/NĐ-CP và sử dụng đến khi chuyển sang sử dụng hóa đơn điện tử theo quy định tại Nghị định số 119/2018/NĐ-CP.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong thời gian chờ Thông tư hướng dẫn, đề nghị có hướng dẫn thống nhất.
email: [email protected], hotline: 086 508 6899