Chuyển đổi số tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam

16/11/2023, 13:52
báo nói -

TCDN - Thông qua quá trình đẩy mạnh ứng dụng tự động hóa, trí tuệ nhân tạo, phân tích dữ liệu lớn, internet vạn vật...có thể tạo bước nhảy vọt trong việc nâng cấp cơ sở hạ tầng, đơn giản hóa chuỗi cung ứng và logistics, giúp doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn.

3-1

TÓM TẮT:

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang làm thay đổi cấu trúc và động lực của nhiều ngành công nghiệp.Thông qua quá trình đẩy mạnh ứng dụng tự động hóa, trí tuệ nhân tạo, phân tích dữ liệu lớn, internet vạn vật...có thể tạo bước nhảy vọt trong việc nâng cấp cơ sở hạ tầng, đơn giản hóa chuỗi cung ứng và logistics, giúp doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn. Vì vậy việc chuyển đổi số ở doanh nghiệp góp phần tạo ra động lực phát triển mới, tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. Cùng với lợi ích mà doanh nghiệp có thể đạt được, chuyển đổi số cũng đặt ra một số khó khăn thử thách mà doanh nghiệp cần phải vượt qua.

Để phân tích, đánh giá những cơ hội và thách thức đặt ra đối với quá, trình chuyển đổi số của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, bài viết này sẽ tập trung vào nghiên cứu và tổng hợp các tài liệu, công trình nghiên cứu trong và ngoài nước; các thông tin, báo cáo dữ liệu có liên quan đến hoạt động chuyển đổi số tại các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu và phân tích, tác giả đưa ra một số đề xuất khuyến nghị nhằm tăng cường quá trình chuyển đổi số với doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trong thời gian tới.

1. Thực trạng chuyển đổi số tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam hiện nay

Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động trong 7 tháng đầu năm 2022 đạt 133,7 nghìn doanh nghiệp, tăng 26,8% so với cùng kỳ năm 2021 (vượt mốc 105,4 nghìn doanh nghiệp của năm 2021). Tuy nhiên, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tập trung chủ yếu là doanh nghiệp có quy mô nhỏ (từ 0-10 tỷ đồng) với 80,1 nghìn doanh nghiệp, chiếm 89,6% tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng 20,2% so với cùng kỳ năm trước.

Theo kết quả khảo sát trên 400 doanh nghiệp về “Thực trạng chuyển đổi số trong doanh nghiệp trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19” do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) thực hiện năm 2020, cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu nhận thức và ứng dụng các công nghệ số vào các khâu như quản trị nội bộ, sản xuất, logistics, mua hàng, marketing, bán hàng và thanh toán. Khi đại dịch Covid-19 lan rộng dẫn tới những hạn chế tiếp xúc và việc phải thực hiện các biện pháp giãn cách xã hội đã buộc doanh nghiệp phải ứng dụng nhiều hơn công nghệ số trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình nhất là trong quản trị nội bộ, thanh toán điện tử, marketing trực tuyến.

Trong một thời gian ngắn, rất nhiều doanh nghiệp đã đẩy mạnh ứng dụng các công nghệ số trong quản lý nhân sự từ xa, hội nghị trực tuyến, học trực tuyến, phê duyệt nội bộ... Trong lĩnh vực quản trị nội bộ, điện toán đám mây là công cụ kỹ thuật được nhiều doanh nghiệp Việt Nam sử dụng với 60,6% tăng 19,5% so với thời điểm trước đại dịch. Sau đó đến hội nghị trực tuyến, hệ thống quản lý công việc và quy trình với gần 30% doanh nghiệp đã sử dụng công cụ này trước khi có đại dịch Covid-19 và gần 19% doanh nghiệp đã bắt đầu sử dụng công nghệ này từ khi có dịch bệnh.

Kết quả khảo sát của VCCI cũng cho thấy có 98% doanh nghiệp kỳ vọng có sự thay đổi trong hoạt động sản xuất, kinh doanh khi thực hiện chuyển đổi số, trong đó lớn nhất là khả năng giúp giảm chi phí (chiếm hơn 71%), giúp doanh nghiệp hạn chế giấy tờ (chiếm 61,4%), nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ (chiếm 45,3%).

Trong báo cáo công bố bảng xếp hạng VNR500 - Top 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam năm 2021 của Vietnam Report, cho thấy có 94,7% doanh nghiệp đã và đang đầu tư vào quá trình chuyển đổi số và chỉ có 5,3% doanh nghiệp không thực hiện. Trong đó có 44% doanh nghiệp chi dưới 1% tổng doanh thu cho quá trình chuyển đổi số; 40,1% chi từ 1% đến dưới 5% tổng doanh thu; 9,3% chi từ 5% đến 10% tổng doanh thu và 1,3% đầu tư trên 10% tổng doanh thu để thực hiện quá trình chuyển đổi số. Như vậy, có thể thấy mức độ chi cho chuyển đổi số tại các doanh nghiệp Top 500 đã tăng và sẵn sàng thực hiện chuyển đổi số trong tương lai.

Theo báo cáo của Cisco năm 2020, tại Việt Nam các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đang phải đối mặt với những rào cản trong quá trình chuyển đổi số như thiếu nền tảng CNTT đủ mạnh để cho phép chuyển đổi kỹ thuật số (12%), thiếu tư duy kỹ thuật số hoặc các thách thức về văn hóa kỹ thuật số trong doanh nghiệp (16%), chuyển đổi số là một quá trình quá lớn doanh nghiệp không biết bắt đầu từ đâu (14%).

Cũng theo báo cáo Cisco, ưu tiên chuyển đổi số của các DNNVV tại Việt Nam chủ yếu tập trung vào tăng trưởng và mở rộng thị trường (28%), cải thiện doanh số bán hàng và chiến lược tiếp thị sản phẩm (21%), giới thiệu các sản phẩm và dịch vụ mới hoặc cải thiện những sản phẩm và dịch vụ đã có (18%).

Hiện nay ở Việt Nam, chuyển đổi số đã điễn ra ở hầu hết các loại hình doanh nghiệp và ở nhiều mức độ khác nhau, nhất là những ngành như ngân hàng, bảo hiểm, thương mại điện tử, giao thông, du lịch,...

2. Cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp

Chuyển đổi số trong doanh nghiệp đang là yếu tố góp phần quan trọng giúp nền kinh tế số nước ta phát triển. Mặc dù đã có những nhận thức cần thiết về chuyển đổi số, tuy nhiên do khả năng sản xuất còn hạn chế, mức độ tự động hóa còn chưa cao nên quá trình chuyển đổi số có thể được thực hiện trong nhiều năm, với các mức đầu tư ở mỗi giai đoạn khác nhau, tùy vào mức độ ưu tiên và nhu cầu của doanh nghiệp tại mỗi thời điểm. Quá trình chuyển đổi số cũng mang lại những cơ hội và thách thức khác nhau đối với từng doanh nghiệp.

2.1. Cơ hội

Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế cao trong những năm gần đây đã và đang tạo ra môi trường tốt hơn cho chuyển đổi số. Đặc biệt, tầng lớp trung lưu ở Việt Nam đang tăng nhanh nhất trong khu vực ASEAN, cho thấy tiềm năng lớn cho lĩnh vực tài chính, ngân hàng, chăm sóc sức khỏe và bảo hiểm.

Thứ hai, nền tảng cho số hóa ở Việt Nam gần đây đã được chú trọng phát triển. Dịch vụ Internet tốc độ cao, thiết bị thông minh và điện thoại di động ở Việt Nam đang trở nên phổ biến hơn. Tỷ lệ hộ gia đình có kết nối Internet đạt 74,8% tăng hơn 3 lần trong 5 năm qua, cao hơn mức trung bình của thế giới 1,4 lần (tỷ lệ 57,4%). Tên miền quốc gia “.vn” vượt mốc nửa triệu, đạt 512,245 tên miền, lần đầu tiên vượt qua tên miền quốc tế với tỷ lệ 50,6%/49,4%, tiếp tục đứng đầu khu vực ASEAN. Việt Nam cũng nằm trong top 10 quốc gia có mức độ triển khai địa chỉ Internet thế hệ mới (Ipv6) cao nhất toàn cầu, đạt 45,86% gấp 1,7 lần trung bình thế giới với 34 triệu người sử dụng địa chỉ IPv6. [sách trắng CNTT Việt Nam 2021].

Đã có hơn 1 triệu km cáp quang được triển khai đến tận thôn, bản, xã, phường trên cả nước. Sóng di động 3G đã phủ tới 99,8% dân số, trong đó, vùng phủ sóng 4G phục vụ trên 99,5% dân số [sách trắng CNTT Việt Nam 2021]. Mạng di động 5G đã được thử nghiệm thương mại hóa dịch vụ, cùng nhịp với những nước đầu tiên triển khai trên thế giới. Mạng di động 5G dự kiến sẽ triển khai trước tiên tại 4 thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng và Hải Phòng. Trong đó, MobiFone đã sẵn sàng để triển khai mạng di động 5G và các ứng dụng cho khách hàng của mình bằng việc lắp đặt các trạm phát sóng 5G đầu tiên tại các thành phố nói trên; Viettel cũng đã hợp tác cùng Ericson - Thụy Điển để triển khai thử nghiệm mạng 5G, tháng 1/2020 Viettel công bố thử nghiệm thành công cuộc gọi video đầu tiên sử dụng đường truyền dữ liệu 5G do Viettel tự nghiên cứu và sản xuất; VNPT cũng không đứng ngoài cuộc, khi từ năm 2018 đã ký kết hợp tác với hai đối tác nước ngoài bao gồm Tập đoàn Nokia - Phần Lan để chuẩn bị đầu tư kỹ thuật cho việc triển khai mạng 5G.

Thứ ba, Việt Nam cũng có lợi thế to lớn về nguồn nhân lực công nghệ. Tổng số lao động lĩnh vực công nghiệp CNTT - điện tử, viễn thông năm 2020 xấp xỉ 1,09 triệu, trong đó lao động công nghiệp phần cứng, điện tử xấp xỉ 845 nghìn, lao động công nghiệp phần mềm hơn 149 triệu, lao động công nghiệp nội dung số hơn 34 nghìn và số lao động dịch vụ CNTT (trừ buôn bán, phân phối) hơn 55 nghìn [sách trắng CNTT Việt Nam 2021]. Ngoài ra, Việt Nam còn có nhiều trường đào tạo ngành Công nghệ thông tin, đây là nguồn cung cấp nguồn lao động chất lượng cao, trong đó có chuyên ngành công nghệ thông tin và khoa học dữ liệu.

Thứ tư, doanh nghiệp Việt Nam nhận được sự đồng tình, ủng hộ của Chính phủ với hàng loại những cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong chuyển đổi số. Nghị quyết số 52 -NQ/TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã xác định phát triển kinh tế số là trụ cột, là nhiệm vụ trọng tâm chiến lược trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia những năm tiếp theo. Mục tiêu đến năm 2025 kinh tế số của Việt Nam chiếm 20% GDP, đến năm 2030 chiếm 30% GDP, đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ 3 trong khu vực ASEAN về chính phủ điện tử và kinh tế số. Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 3/6/2020 của Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Cùng với đó, Chính phủ cũng đang đổi mới mạnh mẽ phương thức làm việc gắn với ứng dụng CNTT, xây dựng chính phủ điện tử, chuyển đổi số quốc gia lấy người dân làm trung tâm, tạo nền tảng thúc đẩy tăng trường kinh tế số, hình thành Chính phủ số, xã hội số.

2.2. Thách thức

Mặc dù những lợi ích và cơ hội mà chuyển đổi số mang lại cho doanh nghiệp nói chung và DNNVV ở Việt Nam nói riêng là vô cùng to lớn, nhưng bên cạnh đó vẫn có nhiều thách thức trong quá trình chuyển đổi số ở doanh nghiệp.

Thứ nhất, thiếu vốn và thiếu thông tin

Đây được coi là thách thức chính trong quá trình thúc đẩy chuyển đổi số ở doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt là các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất và nông nghiệp. Việt Nam là nước đang phát triển, cơ sở hạ tầng kỹ thuật số của nước ta còn đang khá thô sơ về dữ liệu, tốc độ truyền tải. Để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số cần đầu tư nhiều hơn nữa vào cơ sở hạ tầng. Quá trình đầu tư này không thể triển khai ngay lập tức mà cần có thời gian và tốn kém.

Theo Cameron A và cộng sự (2019) chỉ có 15% doanh nghiệp được khảo sát cho biết họ có những khoản đầu tư lớn vào số hóa trong năm 2019 và 18% có ý định đầu tư mạnh vào số hóa trong năm năm tới. Mức đầu tư cao, cùng với những lợi ích kinh tế chưa thật sự rõ ràng và sự thiếu chắc chắn của việc áp dụng công nghệ là những thách thức đối với số hóa ở Việt Nam, nhất là đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Thứ hai, thiếu hụt lao động có trình độ và kỹ năng cho chuyển đổi số

Đây cũng được coi là thách thức chính đối với chuyển đổi số tại Việt Nam trong hiện tại và tương lai. Chuyển đổi số đòi hỏi quy trình và công nghệ phức tạp. Để xây dựng các nền tảng và bảo trì chúng đòi hỏi nhiều chuyên gia và lao động đã qua đào tạo. Ở nước ta đang thiếu hụt những lao động này. Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, hiện nay số trường đại học và cao đẳng trên cả nước có chương trình đào tạo CNTT chiếm 37,5%, mỗi năm có khoảng 50 nghìn sinh viên tốt nghiệp. Theo “Báo cáo thị trường CNTT Việt Nam năm 2020” của Topdev, có khoảng 30% sinh viên tốt nghiệp có khả năng đáp ứng yêu cầu chuyên môn của doanh nghiệp, còn lại 70% cần đào tạo bổ sung từ 3 tháng đến 6 tháng. Nhân lực IT của Việt Nam dù được đánh giá cao, tuy nhiên vẫn chưa được khai thác đủ tầm và lực để đảm bảo số lượng và chất lượng phục vụ cho nhu cầu phát triển công nghệ trong nước và sánh ngang với các quốc gia trong khu vực.

Cũng theo báo cáo Topdev, trong năm 2020, Việt Nam thiếu hụt khoảng 100.000 nhân lực CNTT, trong năm 2020 nhu cầu doanh nghiệp cần hơn 400 nghìn nhân lực CNTT, và con số đó là 500 nghìn trong năm 2021. Sự thiếu hụt này đến từ nhiều nguyên nhân mà trong đó những nguyên nhân trọng tâm là: các chương trình đào tạo không đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp; công nghệ thay đổi quá nhanh mà các trường không theo kịp để phát triển các chương trình đào tạo phù hợp; thị trường cần các chuyên gia có kỹ năng cao trong khi sinh viên mới tốt nghiệp thì thiếu kỹ năng thực hành và kỹ năng mềm (làm việc nhóm, quản lý thời gian, kỹ năng giao tiếp, ...); nhân lực CNTT thường thiếu kỹ năng giao tiếp và sử dụng tiếng Anh chưa thành thạo...

Thứ ba, doanh nghiệp thiếu nhận thức về vai trò của chuyển đổi số

Công cuộc chuyển đổi số đòi hỏi những người đứng đầu doanh nghiệp phải là người sẵn sàng thay đổi, mạnh dạn từ bỏ mô hình kinh doanh truyền thống để xây dựng một mô hình kinh doanh mới, một quy trình làm việc mới. Tuy nhiên, theo báo cáo của Liên đoàn Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI), DNNVV hiện nay chiếm hơn 97% tổng số doanh nghiệp Việt Nam, nhưng có trình độ đổi mới về công nghệ thấp. Theo khảo sát của Bộ Công Thương, có tới 16 trong 17 ngành nghề được khảo sát có mức độ sẵn sàng để tham gia vào chuyển đổi số thấp. Đáng chú ý, hơn 80% doanh nghiệp mới bắt đầu tìm hiểu về chuyển đổi số. Gần đây, các khái niệm về “kinh tế số” và “chuyển đổi số” đã được đề cập rất nhiều, nhưng nhiều DNNVV vẫn chưa thực sự hiểu và áp dụng vào thực tiễn.

Theo kết quả khảo sát 400 DNNVV trong dự án Digital STARS Showcase năm 2020, có 22% lãnh đạo DNNVV do thiếu tầm nhìn và hạn chế trong nhận thức về chuyển đổi số đã khiến họ chần chừ trong quá trình chuyển đổi số. Đa phần doanh nghiệp chưa xây dựng được chiến lược chuyển đổi số rõ ràng, phù hợp với chiến lược kinh doanh và các nguồn lực của doanh nghiệp, cũng như chưa xác định được hướng chuyển đổi công nghệ phù hợp.

Thứ tư, chuyển đổi số có thể làm tăng rủi ro liên quan tới việc làm và phân biệt đối xử

Càng phụ thuộc vào công nghệ thì càng ít phụ thuộc vào con người. Các quy trình được tự động hóa nhiều hơn thì yêu cầu về nguồn nhân lực giảm xuống. Theo Cameron A và cộng sự, có tới 38,1% việc làm hiện tại của nước ta có thể được chuyển đổi do tác động của tự động hóa vào năm 2045. Theo một đánh giá lạc quan hơn thì khoảng 15% tổng số việc làm sẽ được tự động hóa vào năm 2033. Ngoài ra chuyển đổi số cũng có thể làm tăng bất bình đẳng trong xã hội: Một báo cáo của Ngân hàng thế giới năm 2016 chỉ ra rằng chuyển đổi số mang lại nhiều lợi ích hơn cho người giàu, nhưng những người nghèo thì lại hưởng ít lợi ích hơn từ những công nghệ này.

3. Một số khuyến nghị

Từ những phân tích ở trên, mặc dù đã có những nhận thức về sự cần thiết của chuyển đổi số, tuy nhiên do các DNNVV ở Việt Nam còn hạn chế về năng lực sản xuất, tài chính, khoa học công nghệ nên việc thực hiện chuyển đổi số còn gặp nhiều khó khăn. Để quá trình chuyển đổi số trong DNNVV đạt được những kết quả khả quan trong thời gian tới thì cần có sự chung tay của Nhà nước và bản thân các DNNVV.

Về phía Nhà nước.

Nhà nước cần nhanh chóng hoàn thiện, rà soát và tiếp tục sửa đổi các hành lang pháp lý, các chương trình hành động cụ thể để hỗ trợ quá trình chuyển đổi số. Tăng cường sự phối hợp đồng nhất giữa các bộ, cơ quan ban ngành Nhà nước trong việc thực hiện các chiến lược quốc gia về Kinh tế số. Quan trọng hơn cả là sự đồng hành của cơ quan chức năng với doanh nghiệp trong quá trình chuyển đổi số, đặt biệt trong liên kết chuỗi giá trị. Điều đó sẽ giúp cho các doanh nghiệp kiên định với mục tiêu chuyển đổi số. Bên cạnh đó, Hiệp hội DNNVV Việt Nam cần nghiên cứu, đề xuất và sửa đổi các chính sách quy định không còn phù hợp với sự phát triển của doanh nghiệp trong thời đại kinh tế số hiện nay.

Về phía các DNNVV ở Việt Nam

Doanh nghiệp cần xác định chuyển đổi số là xu thế tất yếu của nền kinh tế số trong thời đại bùng nổ công nghệ, nó mang lại lợi ích to lớn cho cả doanh nghiệp và người tiêu dùng. Chính vì vậy, các nhà lãnh đạo phải có nhận thức kịp thời và sớm xác định hoạt động chuyển đổi số là mục tiêu cần thực hiện và thực hiện thành công trong thời gian tới, nhất là trong bối cảnh biến động lớn về thị trường, khí hậu và khả năng thích ứng của mỗi doanh nghiệp.

Chuyển đổi số chính là việc ứng dụng những công nghệ mới vào mọi hoạt động của doanh nghiệp trong thời đại bùng nổ công nghệ dựa trên nền tảng internet, nên quá trình chuyển đổi số đòi hỏi rất cao cả về kỹ thuật và nhân lực. Hiện nay, Việt Nam vẫn còn đi sau thế giới về mặt công nghệ, chúng ta chưa làm chủ được các công nghệ lõi của chuyển đổi số mà vẫn sử dụng các công nghệ sẵn có trên thế giới. Việc sở hữu những công nghệ phù hợp đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình chuyển đổi số. Để quá trình chuyển đổi số thành công, các doanh nghiệp cần tăng cường ứng dụng các công nghệ mới của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 cho quá trình chuyển đổi số của mình như: Internet vạn vật (Internet of thing - IoT): Công nghệ này là một hệ thống các thiết bị vật lý được tích hợp với cảm biến, phần mềm và các công nghệ khác để kết nối và trao đổi dữ liệu với nhau thông qua mạng Internet mà không cần sự tương tác giữa con người với máy tính; các thiết bị IoT tạo ra một lượng lớn dữ liệu, thông tin chi tiết và phân tích cụ thể sẽ giúp doanh nghiệp đạt được nhiều mục tiêu trong chuyển đổi số như vận hành hiệu quả, tăng tính linh hoạt cũng như phục vụ khách hàng tốt hơn. Điện toán đám mây (Cloud computing): là nền tảng công nghệ giúp lưu trữ, quản lý, phân tích và bảo mật dữ liệu bằng cách khai thác các máy chủ dựa trên internet; công nghệ này giúp các doanh nghiệp có thể cải thiện thời gian hoạt động liên tục của hạ tầng CNTT, tận dụng thế mạnh của nhà cung cấp nền tảng và tối đa hóa ngân sách đầu tư cho doanh nghiệp. Tự động hóa (Robotics): ứng dụng robot trong chuyển đổi số sẽ góp phần giảm chi phí nhân lực, giảm thiểu tối đa những sai sót trong quá trình sản xuất, thúc đẩy năng suất và độ chính xác cao cho sản phẩm...

Ngoài ra, để thực hiện chuyển đổi số doanh nghiệp cần có nguồn nhân lực chất lượng cao có thể làm chủ được những công nghệ mới phục vụ cho quá trình triển khai chuyển đổi số. Vì vậy, doanh nghiệp cần có chiến lược phát triển nguồn nhân lực của mình, trước hết là giải pháp để nâng cao nguồn nhân lực hiện có, nhất là đội ngũ cán bộ, nhân viên chủ chốt thông qua các hoạt động đào tạo, tập huấn về năng lực chuyên môn nghiệp vụ, công nghệ thông tin, máy tính và ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh... Chú trọng công tác tuyển dụng, cần có chiến lược bổ sung nguồn nhân lực chất lượng cao thông qua sự kết hợp đào tạo giữa doanh nghiệp với các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước.

Quan trọng nhất, chuyển đổi số là một quá trình đòi hỏi nguồn đầu tư lớn không chỉ cho cơ sở hạ tầng và giải pháp công nghệ mà còn đầu tư để thay đổi nhận thức, chiến lược, nhân sự, quy trình sản xuất kinh doanh...Với việc phải đầu tư lớn về tài chính trong khi chưa chắc chắn về hiệu quả,vì vậy, doanh nghiệp cần có chiến lược, giải pháp cụ thể trong việc đầu tư tài chính cho quá trình chuyển đổi số. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn tài chính mới phù hợp với năng lực của mình thông qua việc tham gia các hoạt động hỗ trợ chuyển đổi số của các cơ quan Nhà nước, như: dự án “Thúc đẩy cải cách và nâng cao năng lực kết nối của doanh nghiệp nhỏ và vừa” (LinkSME) do Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) đang triển khai chương trình hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số giai đoạn 2021 -2025 cùng nhiều hoạt động hỗ trợ thiết thực nhằm tăng cường năng lực tiếp cận các nguồn tài chính đa dạng cho DNNVV.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Bộ Thông tin và Truyền Thông, “Sách trắng công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam 2021”.

2. Cameron A, Pham T H, Atherton J, Nguyen D H, Nguyen T P, Tran S T, Nguyen T N, Trinh H Y & Hajkowicz S. “Tương lai nền kinh tế số Việt Nam - Hướng tới năm 2030và 2045”. CSIRO, Brisbane.(2019)

3. Cisco, “2020 Asia Pacific SMB Digital Maturity Study”

4. Gartner, “Gartner Glossary: Digitization,” [Online]. Available: https://www.gartner.com/en/information-technology/glossary/digitization, 2020.

5. Microsoft, “GDP châu Á Thái Bình Dương sẽ tăng 387 tỷ USD vào năm 2021 nhờ vào những chuyển đổi số của ngành sản xuất,” 2018.

6. PGS. TS. Bùi Thị T. and TS. Nguyễn Xuân H, "Chuyển đổi số của doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) trong bối cảnh đại dịch Covid-19", Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh, 2021.

ThS. Vũ Quang Huy

Trường Đại học Thương mại

Tạp chí in tháng 11/2023
Bạn đang đọc bài viết Chuyển đổi số tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam tại chuyên mục Bài báo khoa học của Tạp chí Tài chính doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác:

email: [email protected], hotline: 086 508 6899