Hiệu quả tài chính của mô hình sản xuất 3 vụ lúa và 2 vụ lúa 1 vụ cá
TCDN - Mục tiêu của nghiên cứu sử dụng số liệu thu thập tư một cuộc khao sát đối với 250 nông hộ trên địa bàn huyện Phụng hiệp, tinh Hậu Giang bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp để phân tích và so sánh hiệu quả sản xuất giữa mô hình 3 vụ lúa và 2 vụ lúa 1 vụ cá.
TÓM TẮT
Mục tiêu của nghiên cứu sử dụng số liệu thu thập tư một cuộc khao sát đối với 250 nông hộ (123 hộ áp dụng mô hình 3 vụ lúa và 127 hộ áp dụng mô hinh 2 vụ lúa 1 vụ cá) trên địa bàn huyện Phụng hiệp, tinh Hậu Giang bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp để phân tích và so sánh hiệu quả sản xuất về phương diện tài chính giữa mô hình 3 vụ lúa và 2 vụ lúa 1 vụ cá. Đồng thời, đề tài còn xác định những thuận lợi và khó khăn trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của các nông hộ sản xuất đang áp dụng các mô hình này. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất cho nông dân đang áp dụng các mô hình sản xuất này. Mô hình hiệu quả sản xuất được phản ánh qua các chỉ tiêu: (i) lợi nhuận, (ii) tỷ số doanh thu/chi phí, (iii) tỷ số lợi nhuận/chi phí, và (iv) lợi nhuận bình quân trên một lao động nhà hoặc trên một ngày công lao động nhà.
1. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. Phương pháp chọn mẫu và cỡ mẫu
Đây là nguồn số liệu chính được sử dụng. Số liệu này được thu thập từ một cuộc khảo sát được thực hiện trong năm 2024 đối với 250 nông hộ thuộc địa bàn huyện Phụng Hiệp. Số nông hộ này được chọn để thu thập thông tin theo phương pháp chọn mẫu 2 giai đoạn. Cách tiến hành được mô tả dưới đây.
Bước 1: Phân tầng theo số liệu Chi cục thống kê huyện, Phụng Hiệp có 36.403 hộ làm nông nghiệp được phân bố ở 12 xã và 2 thị trấn.
Bước 2: Ngẫu nhiên trong mỗi nhóm các hộ sản xuất theo từng mô hình, 127 hộ được chọn ra theo phương pháp ngẫu nhiên và tiến hành phỏng vấn trực tiếp để thu thập thông tin.
Tuy nhiên, trong quá trình phỏng vấn có 4 hộ thuộc mô hình 3 vụ lúa không cung cấp đầy đủ thông tin nên đã bị loại ra khỏi mẫu. Do đó, mẫu số liệu dùng để phân tích cuối cùng bao gồm 250 hộ sản xuất; trong đó, có 123 hộ áp dụng mô hình 3 vụ lúa và 127 hộ áp dụng mô hình 2 vụ lúa – 1 vụ cá.
1.2 Phương pháp phân tích số liệu
Như đã trình bày, mục tiêu trọng tâm của đề tài là phân tích và so sánh hiệu quả tài chính của 2 mô hình canh tác. Chính vì vậy, định hướng của đề tài là sử dụng các đại lượng thống kê mô tả tương ứng của các tỷ số tài chính (ở mục tóm tắt) để mô tả và so sánh mức độ hiệu quả của từng mô hình sản xuất. Đây cũng là phương pháp truyền thống đã được dùng rất phổ biến trong việc đánh giá hiệu quả của bất kỳ một quá trình sản xuất nào. Các tỷ số này được xây dựng dựa trên các tiêu chí về chi phí, doanh thu và lợi nhuận thực tế của một quá trình sản xuất. Các tỷ số tài chính được sử dụng bao gồm: lợi nhuận bình quân trên một đơn vị diện tích canh tác, tỷ số doanh thu/chi phí, tỷ số lợi nhuận/chi phí và tỷ số lợi nhuận/ngày công lao động.
2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
2.1 Thống kê nghiên cứu
Mẫu khảo sát gồm 250 hộ sản xuất ở huyện Phụng Hiệp. Trong đó, 123 hộ thuộc mô hình độc canh 3 vụ lúa (49,2%); số còn lại (50,8%) đang áp dụng mô hình luân canh 2 lúa – 1 cá.

Về giới tính, có khoảng 93% trong tổng số 250 hộ được khảo sát có nam giới là chủ hộ. Tuy nhiên, tỷ lệ hộ có nam giới là chủ hộ có sự khác biệt nhỏ giữa 2 nhóm hộ thuộc 2 mô hình canh tác khác nhau. Cụ thể là 96% số hộ áp dụng mô hình lúa 3 vụ có chủ hộ là nam trong khi con số này đối với mô hình 2 vụ lúa – 1 vụ cá là khoảng 90%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khá ngạc nhiên này có thể phản ánh sự mạnh dạn trong việc thay đổi mô hình canh tác cũ bằng mô hình mới trong sản xuất nông nghiệp của những nữ chủ hộ.
Về trình độ học vấn, số liệu trong bảng cho thấy mức thấp trong trình độ học vấn của chủ hộ trong mẫu khảo sát. Theo đó, chỉ có 17,2% tổng số hộ trong mẫu đã hoàn thành chương trình học của các lớp từ 10 đến 12, không có chủ hộ nào có trình độ cao hơn bậc học này.
2.2 Tình hình sản xuất
2.2.1 Kinh nghiệm
Lúa là cây trồng truyền thống của người dân ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói chung và tỉnh Hậu Giang nói riêng. Do đó kinh nghiệm sản xuất góp phần rất lớn vào hiệu quả của nông hộ. Tính trung bình kinh nghiệm trồng lúa ở cả 2 mô hình gần 14 năm. Bảng 2 cho thấy đối với mô hình 3 vụ lúa số hộ có kinh nghiệm lớn hơn 15 năm chiếm tỷ trọng cao nhất (62,6%) và đối với mô hình 2 vụ lúa – 1 vụ cá số hộ có kinh nghiệm nhỏ hơn 5 năm chiếm tỷ lệ cao nhất (63%). Kinh nghiệm sản xuất của chủ hộ ở 2 mô hình chênh lệch nhau rất nhiều.

2.2.2 Ứng dụng khoa học trong sản xuất
2.2.2.1 Phương pháp gieo sạ
Bảng 3 mô tả về việc ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất. Cụ thể, trong tổng số mẫu được phỏng vấn có 36% nông hộ áp dụng phương pháp sạ hàng, còn lại 64% sạ lang. Đối với mô hình 3 vụ lúa và mô hình 2 vụ lúa – 1 vụ cá lần lượt là 32,5% và 39,4% nông hộ sạ hàng. Áp dụng phương pháp sạ hàng, nông hộ có thể giảm đáng kể chi phí lao động và tiết kiệm giống lúa. Nhưng nông hộ sạ lang chiếm tỷ lệ khá cao (64%) trong tổng số 250 hộ được phỏng vấn. Vì hiện nay nạn ốc bươu vàng, chuột cắn phá có chiều hướng gia tăng nhanh nên nông hộ sạ lang có thể giảm bớt rủi ro khi chuột, ốc bươu vàng phá hoại.

2.2.2.2 Nguồn giống sản xuất
Bảng 3 tổng hợp thông tin về nguồn gốc giống lúa trong sản xuất nông nghiệp. Giống lúa phổ biến nhất là IR 50404 chiếm (36%), còn lại các loại giống như OM 4218; 6976; 4976 chiếm (14%), Jasmin (18%), Hậu Giang 2 (13,2%) trong tổng số mẫu được phỏng vấn ở 2 mô hình. Do giống thể hiện đặc điểm như năng suất cao, ít đổ ngã nên nông dân ưa chuộng. Giống cũng là yếu tố quan trọng làm tăng sản lượng và chất lượng sản phẩm. Chính vì vậy, cần khuyến cáo bà con nông dân nên thay đổi thói quen sản xuất theo truyền thống, chuyển giống tự làm sang mua giống từ các Viện, Trường, phòng Nông nghiệp, Trung tâm Khuyến nông – Khuyến ngư để có giống đạt chất lượng và giá cao hơn so với sản xuất lúa theo lối truyền thống.
2.2.2.3 Ứng dụng quy trình kỹ thuật sản xuất được khuyến cáo
Kết quả khảo sát cho thấy chỉ có 2 loại quy trình kỹ thuật được khuyến cáo đang được áp dụng phổ biến trên địa bàn nghiên cứu là mô hình IPM và mô hình 3 giảm 3 tăng (Bảng 3). Theo đó, có 38,4% số nông hộ được phỏng vấn áp dụng mô hình IPM và 53,6% số hộ được phỏng vấn áp dụng mô hình 3 giảm 3 tăng. Để giúp nhà nông tháo gỡ phần nào khó khăn, ngành nông nghiệp huyện đang tích cực chuyển giao khoa học kỹ thuật trong thâm canh theo hướng khuyến khích bà con áp dụng phổ biến quy trình IPM, ba giảm ba tăng, một phải năm giảm... sử dụng các loại phân hữu cơ, phân vi sinh nhằm giảm chi phí, tăng hiệu quả sản xuất.
2.3 Kết quả So sánh doanh thu, chi phí và lợi nhuận 2 mô hình
Bảng tổng hợp về doanh thu, chi phí và lợi nhuận bình quân cho mỗi heta diện tích đất canh tác cho từng mô hình sản xuất. Tổng chi phí sản xuất cho cả 2 mô hình bao gồm các khoản chi phí chuẩn bị đất, chi phí giống, chi phí phân, chi phí thuốc, chi phí lãi vay, chi phí khấu hao, chi phí thuê lao động, chi phí thu hoạch, chi phí bơm nước. Theo đó, tổng chi phí đầu tư ở từng mô hình lúa 3 vụ và 2 vụ lúa – 1 vụ cá lần lượt là 40.002 ngàn đồng/ha/năm và 27.418 ngàn đồng/ha/năm. Điều này cho thấy mô hình lúa 3 vụ chi phí đầu tư cao hơn 12.584 ngàn đồng/ha/năm so với mô hình còn lại. Sự chênh lệch này có ý nghĩa thống kê.

Sự khác biệt về chi phí trong bảng trên cho thấy chi phí sản xuất theo mô hình 3 vụ lúa có sự chênh lệch rất cao so với các khoản mục chi phí tương ứng trong mô hình luân canh 2 vụ lúa – 1 vụ cá. Trong đó, chi phí phân bón và chi phí thu hoạch lần lượt là các khoản mục chiếm tỷ trọng cao ở mô hình 3 vụ lúa, hai khoản mục này cũng chiếm tỷ trọng cao nhất trong mô hình còn lại.
Về doanh thu, kết quả kiểm định t cho thấy có sự khác biệt về doanh thu bình quân từ 2 mô hình sản xuất khác nhau, điều này có thể phụ thuộc vào vụ Thu đông giữa hai mô hình. Cụ thể, doanh thu bình quân mô hình 3 vụ lúa là 79.878 ngàn đồng/ha/năm, trong khi mô hình 2 vụ lúa – 1 vụ cá có tổng doanh thu 64.627 ngàn đồng/ha/năm. Mô hình 3 vụ lúa có doanh thu cao hơn mô hình còn lại, sự chênh lệch này là do ảnh hưởng vụ mùa Thu Đông tại thời điểm nghiên cứu giá lúa cao so với vụ Đông xuân và Hè thu, nên nông hộ có doanh thu cao hơn mô hình còn lại được thể hiện bảng 6
Về lợi nhuận, kết quả kiểm định t cho thấy giữa 2 mô hình có sự khác biệt về lợi nhuận bình quân từ 2 mô hình sản xuất khác nhau. Trung bình lợi nhuận mô hình lúa 3 vụ và 2 vụ lúa – 1 vụ cá lần lượt là 39.876 ngàn đồng/ha/năm và 37.209 ngàn đồng/ha/năm. Sự khác biệt về lợi nhuận trung bình giữa 2 mô hình là do ảnh hưởng của các mùa vụ trong năm. Cụ thể, vụ Đông Xuân và Hè Thu thì sự chênh lệch không đáng kể, đặc biệt là do ảnh hưởng của vụ Thu Đông ở mô hình 2 vụ lúa – 1 vụ cá có lợi nhuận thấp hơn mô hình còn lại. Trong đó có nhiều nguyên nhân, do nông hộ chưa có kinh nghiệm trong nuôi cá, chỉ nuôi một số loài cá thiên nhiên hay nuôi một số loài cá chẳng hạn như chép, mè hoa, mè vinh, sặc rằng, nuôi trên ruộng không có sự đầu tư nên sản lượng thu hoạch và giá bán không cao, từ đó lợi nhuận thấp hơn mô hình 3 vụ lúa.
Bên cạnh lợi nhuận nêu trên các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính cho từng mô hình sản xuất cũng được trình bày qua bảng trên. Đối với tỷ số doanh thu/chi phí, qua, kiểm định t cho thấy có sự khác biệt giữa 2 mô hình. Theo đó, tỷ số doanh thu/chi phí trung bình trên 1 ha là 2,0 và 2,4 lần lượt cho mô hình 3 vụ lúa và mô hình 2 vụ lúa – 1 vụ cá, có nghĩa là nông hộ đầu tư 1 ngàn đồng chi phí thu về được 2,0 ngàn đồng doanh thu đối với mô hình lúa 3 vụ và 2,4 ngàn đồng doanh thu đối với mô hình 2 vụ lúa – 1 vụ cá. Tỷ số lợi nhuận/chi phí, qua kiểm định t cho thấy có sự khác biệt ý nghĩa giữa 2 mô hình. Cụ thể, tỷ số này có giá trị là 1,0 – 1,4 lần lượt đối với mô hình3 vụ lúa và mô hình 2 vụ lúa – 1 vụ cá, điều này có nghĩa nông hộ đầu tư 1 ngàn đồng chi phí sản xuất sẽ thu được bình quân từ 1,0 – 1,4 ngàn đồng lợi nhuận. Tỷ số lợi nhuận/ngày công lao động gia đình, kết quả kiểm định t cho thấy có sự khác biệt ý nghĩa thống kê. Tỷ số này cho biết mô hình luân canh 2 vụ lúa – 1 vụ cá cho kết quả tương đối cao với giá trị 558 ngàn đồng, mô hình 3 vụ lúa cho kết quả 465 ngàn đồng. Kết quả này cho biết trong 1 ngày công lao động gia đình nông hộ thu về được từ 465 – 558 ngàn đồng lợi nhuận tùy theo sự lựa chọn mô hình sản xuất của nông hộ. Với giá trị ngày công lao động gia đình như trên, các hộ nông dân nên tập trung vào sản xuất để nâng cao giá trị đất đai mang lại và cải tạo đất, không nên bỏ đất không sản xuất vào vụ Thu Đông.
Tóm lại, việc nghiên cứu hai mô hình sản xuất nêu trên cho thấ chi phí đầu tư 2 mô hình khác nhau, vì vậy hiệu quả mang lại cũng khác nhau. Cụ thể, mô hình uân canh 2 vụ lúa – 1 vụ cá tuy có lợi nhuận thấp hơn mô hình độc canh 3 vụ lúa, nhưng xét về các tỷ số tài chính thì mô hình luân canh 2 vụ lúa – 1 vụ cá hiệu quả đồng vốn mang lại cao hơn. Từ những kết quả trên nghiên cứu trên, chính quyền địa phương nên khuyến cáo để nông dân trong vùng chuyển đổi cơ cấu sản xuất sang sản xuất theo mô hình luân canh 2 vụ lúa – 1 vụ cá để người nông dân giảm bớt phần nào khó khăn và làm giàu trên chính mảnh đất của mình, góp phần cải thiện cuộc sống xóa đói giảm nghèo, đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Trên cơ sở phân tích, đánh giá hiệu quả tài chính mô hình sản xuất 3 vụ lúa và 2 vụ lúa – 1 vụ cá có thể rút ra kết luận cho việc lựa chọn mô hình sản xuất, quy hoạch phù hợp với quy mô sản xuất của từng nông hộ.
Do mô hình 2 vụ lúa - 1 vụ cá chỉ mới thực hiện trong những năm gần đây, nên nông hộ chưa có nhiều kinh nghiệm. Việc học hỏi, trao đổi, tiếp thu các tiến bộ khoa học mới vào sản xuất còn hạn chế nên lợi nhuận đem lại chưa như mong muốn. Từ việc phân tích, so sánh hiệu quả tài chính của hai mô hình canh tác 3 vụ lúa và 2 vụ lúa – 1 vụ cá tại huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang cho thấy mô hình 2 vụ lúa – 1 vụ cá có hiệu quả hơn, hiệu quả sử dụng đồng vốn cao hơn so với mô hình 3 vụ lúa. Nếu nông hộ nhận được sự trợ giúp từ cán bộ khuyến nông, phòng nông nghiệp và tận dụng hết lợi thế điều kiện tự nhiên ở địa phương thì mô hình 2 vụ lúa – 1 vụ cá sẽ mang lại lợi nhuận cao hơn rất nhiều so với mô hình 3 vụ lúa.
Như vậy, khi so sánh lợi nhuận trung bình của 2 mô hình thì lợi nhuận mô hình 3 vụ lúa cao hơn một ít so với mô hình 2 vụ lúa - 1 vụ cá. Nhưng khi xét về yếu tố bền vững và hiệu quả tài chính thì nông hộ nên chuyển mô hình độc canh 3 vụ lúa sang mô hình luân canh 2 vụ lúa – 1 vụ cá để đạt hiệu quả cao hơn.
3.2. Kiến nghị
3.2.1 Đối với nhà nông
Nông hộ cần phải nâng cao trình độ sản xuất bằng cách tăng cường tham gia các lớp tập huấn do địa phương tổ chức để tiếp thu tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất và giảm chi phí trong sản xuất. Phần lớn nông dân sử dụng giống tự làm cho các vụ kế tiếp, ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng lúa, do đó nông hộ cần thay đổi giống có chất lượng hơn để nâng cao năng suất và giá bán. Mặt khác, nông hộ cần theo dõi thông tin thường xuyên để chủ động phòng ngừa dịch bệnh, tuân thủ các khuyến cáo từ báo đài, địa phương để đối phó tốt với dịch bệnh và hạn chế lây lan. Chọn giống tốt để nâng cao hiệu quả sản xuất, nâng cao chất lượng. Tìm hiểu và sử dụng những loại giống có chất lượng, năng suất cao và có khả năng phòng chống sâu bệnh. Ứng dụng khoa học kỹ thuật trong canh tác, tích cực áp dụng các mô hình chẳng hạn như IPM, 3 giảm 3 tăng và ứng dụng tốt các mô hình sản xuất có hiệu quả khác.
3.2.2 Đối với chính quyền địa phương
Đối với chính quyền địa phương cần tiếp tục đầu tư và phát triển hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng đảm bảo chủ động trong việc tưới tiêu, tăng cường các hoạt động tuyên truyền, khuyến khích người dân chuyển đổi các mô hình canh tác hiệu quả. Phòng nông nghiệp phối hợp với trạm Khuyến nông, trạm Thủy sản, trạm Bảo vệ thực vật nhằm chuyển giao giống mới, tập huấn kỹ thuật sản xuất cho nông dân, phân công cán bộ chuyên môn thường xuyên xuống địa bàn hướng dẫn, giải quyết khó khăn cho nông hộ trong khâu kỹ thuật, quy hoạch vùng sản xuất để tạo quy mô lớn có đủ lượng hàng hoá đáp ứng nhu cầu thị trường.
Phòng Nông nghiệp - Phát triển Nông thôn huyện cần tìm hiểu những nơi cung ứng giống cây trồng, vật nuôi chất lượng cao, đã qua kiểm nghiệm để làm cầu nối cung cấp thông tin về giống, vật tư tin cậy cho nông dân, thực hiện cung cấp thông tin về tình hình giá cả thị trường các yếu tố đầu vào và đầu ra của nông nghiệp đến người sản xuất. Thực hiện tốt, kịp thời nhân rộng những mô hình sản xuất thành công và đạt hiệu quả cao, tổ chức tuyên truyền thông qua đài truyền thanh địa phương, các tổ hợp tác, hội đoàn thể như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ… nhằm khuyến khích các hộ khác tham gia. Tiếp tục thực hiện các chương trình trợ giá giống cây trồng, vật nuôi để cải tạo giống tại địa phương, nâng cao năng suất và chất lượng của các loại cây trồng, vật nuôi chủ lực của huyện.
3.2.3 Đối với nhà khoa học
Về phía nhà khoa học cần nghiên cứu đưa ra giải pháp tăng sản lượng, chất lượng và giảm giá thành sản xuất. Mặt khác, cần phải chuyển giao quy trình kỹ thuật canh tác công nghệ cao và hiệu quả cho nông dân; đưa máy móc, công cụ phù hợp với từng đối tượng cây trồng, vật nuôi và điều kiện của nông nghiệp hiện nay vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, chuyển giao công nghệ chế biến và bảo quản nông sản sau thu hoạch cho nông dân để nâng cao giá trị hàng hoá của sản phẩm.
Để duy trì tính ổn định về sản lượng, chất lượng, đối với vùng đang sản xuất cần đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất từ cải tạo đồng ruộng, tạo giống mới có thời gian sinh trưởng tốt, đồng thời có năng suất và chất lượng đạt yêu cầu. Đào tạo, giúp đỡ nông dân về kiến thức mới trong canh tác hiệu quả, kết hợp với các kiến thức về bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, kiến thức về y tế, sức khỏe cộng đồng và tạo điều kiện cho nông dân có ý thức phải hướng đến sản xuất tập trung, có sự liên kết giữa nông dân - nông dân, nông dân - doanh nghiệp và nông dân với các nhà khoa học.
3.2.4 Đối với nhà doanh nghiệp
Nhà doanh nghiệp cần phải có chiến lược và kế hoạch hoạt động phù hợp với thị trường trong và ngoài nước. Phải xây dựng được thương hiệu và chăm sóc thương hiệu của mình theo định hướng cạnh tranh lành mạnh, doanh nghiệp cần tập trung phát triển thị trường, tích cực đi tìm thị trường, định ra khả năng tiêu thụ. Đặt hàng ký hợp đồng với nông dân bao tiêu sản phẩm, các doanh nghiệp cần chú trọng hợp tác với nông dân xây dựng vùng nguyên liệu cho chính mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Thuý Nga (2019), “So sánh hiệu quả của mô hình độc canh ba vụ lúa và mô hình luân canh lúa - bắp – lúa ở huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang”, Luận văn Thạc sỹ, Đại học Cần Thơ.
2. Quan Minh Nhựt (2015), “Phân tích lợi nhuận và hiệu quả theo quy mô sản xuất của mô hình độc canh ba vụ lúa và luân canh hai lúa một màu tại Chợ Mới – An Giang.
3. Hoàng Văn Long (2019), "Đánh giá hiệu quả kinh tế mô hình canh tác lúa - tôm sú và lúa - tôm sú– Cua biển tại vùng U Minh Thượng – tỉnh Kiên Giang”, Luận văn Thạc sỹ, Đại học Cần Thơ.
4. Bùi Thị Bình Nguyên (2011), "So sánh hiệu quả tài chính của hai mô hình canh tác là độc canh ba vụ lúa và luân canh lúa – mè – lúa tại Quận Ô Môn – TP Cần Thơ”, Luận văn Thạc sỹ, Đại học Cần Thơ.
5. Trần Anh Tuấn (2022), “Phân tích hiệu quả sản xuất lúa ở huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang”, luận văn Thạc sỹ, Đại học Cần Thơ.
6. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyện Phụng hiệp, tỉnh Hậu Giang đến năm 2030.
7. Chi cục Thống kê huyện Phụng Hiệp (2024). Niên giám Thống kê huyện Phụng Hiệp.
Lê Thị Thu
Khoa Kinh tế, Trường Cao đẳng Cộng đồng Hậu Giang
Tạp chí in số tháng 6/2025
email: [email protected], hotline: 086 508 6899