Mô hình đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia cuộc thi Khởi nghiệp nông nghiệp của sinh viên

23/12/2025, 16:12
chia sẻ bài viết

TCDN - Nghiên cứu hệ thống hóa cơ sở lý luận và các lý thuyết liên quan đến cuộc thi khởi nghiệp nông nghiệp trong môi trường Đại học, qua đó đề xuất mô hình nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia cuộc thi Khởi nghiệp Nông nghiệp của sinh viên Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh.

Tóm tắt

Nghiên cứu này nhằm hệ thống hóa cơ sở lý luận và các lý thuyết liên quan đến cuộc thi khởi nghiệp trong môi trường Đại học, qua đó đề xuất mô hình nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia cuộc thi Khởi nghiệp Nông nghiệp của sinh viên Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh. Mô hình nghiên cứu được xây dựng dựa trên Lý thuyết hành vi hoạch định (TPB) và Lý thuyết sự kiện khởi nghiệp (SEE), đề xuất 07 yếu tố tác động đến quyết định tham gia cuộc thi, bao gồm: (1) Nhận thức về tính khả thi; (2) Thái độ tham gia cuộc thi; (3) Đặc điểm tính cách cá nhân; (4) Môi trường giáo dục khởi nghiệp; (5) Đặc điểm của cuộc thi; (6) Sự hỗ trợ khi tham gia cuộc thi; (7) Tác động của người xung quanh. Kết quả nghiên cứu góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận cho các nghiên cứu thực nghiệm trong tương lai, đồng thời cung cấp định hướng cho việc thiết kế và triển khai các chương trình, cuộc thi khởi nghiệp phù hợp, qua đó khơi dậy và thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp của sinh viên trong lĩnh vực nông nghiệp.

1. Đặt vấn đề

Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu ngày càng cạnh tranh, các cuộc thi khởi nghiệp được xem là công cụ hiệu quả trong việc phát triển kỹ năng, tư duy sáng tạo và tinh thần khởi nghiệp cho sinh viên đại học (Watson & McGowan, 2019). Việc tham gia các cuộc thi này không chỉ giúp sinh viên rèn luyện năng lực đổi mới, mà còn mở ra cơ hội kết nối với doanh nhân, nhà đầu tư và các chuyên gia trong lĩnh vực khởi nghiệp (O’Connor & cộng sự, 2018).

Tại Việt Nam, hoạt động khởi nghiệp đã nhận được sự quan tâm đáng kể từ Chính phủ, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội. Năm 2016, Chính phủ đã ban hành “Đề án hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp quốc gia đến năm 2025”, thể hiện quyết tâm thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp trong cộng đồng sinh viên (Bộ Khoa học và Công nghệ, 2016). Tuy nhiên, theo thống kê của VCCI (2019), tỷ lệ sinh viên quan tâm và tham gia các hoạt động khởi nghiệp vẫn còn hạn chế, chỉ chiếm khoảng 33,4%, trong đó tỷ lệ tham gia trực tiếp các chương trình của VCCI chỉ đạt 0,016%.

Tại Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh, nhiều chương trình và cuộc thi ý tưởng khởi nghiệp đã được tổ chức thường niên nhằm khuyến khích tinh thần đổi mới sáng tạo của sinh viên. Tuy nhiên, số lượng và chất lượng ý tưởng tham gia vẫn còn hạn chế, cho thấy tồn tại khoảng cách giữa cơ hội được tạo ra và mức độ sẵn sàng tham gia của sinh viên. Khoảng trống này phản ánh sự khác biệt trong nhận thức, thái độ và khả năng tự tin của người học đối với hoạt động khởi nghiệp, vốn là các yếu tố đã được nhiều nghiên cứu xác định là ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi tham gia cuộc thi (Đỗ Thị Trang & Nguyễn Đình Hoàng, 2023). Bên cạnh đó, các yếu tố thuộc về môi trường học tập và hỗ trợ từ nhà trường như giáo dục khởi nghiệp, sự hướng dẫn của giảng viên, đặc điểm tổ chức cuộc thi hay ảnh hưởng từ người xung quanh cũng được chứng minh có vai trò quan trọng trong việc hình thành quyết định của sinh viên (Trần Tuấn Anh & Mai Thị Nguyệt Hồng, 2025). Những yếu tố này gợi ý rằng, hành vi tham gia cuộc thi khởi nghiệp không chỉ chịu tác động bởi động cơ cá nhân mà còn phụ thuộc vào môi trường học thuật và xã hội mà sinh viên đang học tập.

Do đó, việc nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia cuộc thi Khởi nghiệp Nông nghiệp của sinh viên Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh là cần thiết. Điều này không chỉ giúp lý giải nguyên nhân của sự chênh lệch trong mức độ tham gia giữa các nhóm sinh viên mà còn cung cấp cơ sở thực tiễn để nhà trường xây dựng chính sách, chương trình và hoạt động hỗ trợ phù hợp nhằm thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp trong môi trường đại học.

Xuất phát từ thực tiễn đó, nghiên cứu này được thực hiện nhằm hệ thống hóa cơ sở lý luận và đề xuất mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia cuộc thi Khởi nghiệp Nông nghiệp của sinh viên Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh. Mô hình được xây dựng dựa trên Lý thuyết hành vi hoạch định (Ajzen, 1991) và Lý thuyết sự kiện khởi nghiệp (Shapero & Sokol, 1982), qua đó gợi mở định hướng cho các nghiên cứu thực nghiệm tiếp theo và cung cấp cơ sở thực tiễn cho việc thiết kế, triển khai các chương trình khởi nghiệp phù hợp trong môi trường đại học.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

2.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước

Nghiên cứu “Những yếu tố ảnh hưởng tới quyết định tham gia các cuộc thi khởi nghiệp tạo tác động xã hội tại Việt Nam” của tác giả Đỗ Thị Trang và Nguyễn Đình Hoàng (2023). Với nguồn dữ liệu được thu thập từ 120 nhà quản trị doanh nghiệp. Dựa trên những mô hình nghiên cứu, tác giả đã tham khảo một số công trình nghiên cứu tương đồng. Kết quả từ xử lý dữ liệu bằng phần mềm SPSS 20.0 chỉ ra rằng 04 thành phần tác động đến quyết định tham gia cuộc thi từ mạnh nhất đến thấp nhất theo thứ tự như sau: (1) Nhận thức tính khả thi; (2) Thái độ tham gia cuộc thi; (3) Hỗ trợ tham gia cuộc thi; (4) Đặc điểm cuộc thi.  Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng so sánh sự khác biệt giữa quyết định tham gia theo 3 yếu tố: Giới tính, Bậc học, Kinh nghiệm tham gia trước đó, kết luận cho 3 yếu tố là không có sự khác biệt.

Nghiên cứu “Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia các cuộc thi khởi nghiệp của sinh viên trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh” đăng trên tạp chí Kinh tế và dự báo của tác giả Trần Tuấn Anh, Mai Thị Nguyệt Hồng (2025). Kết quả nghiên cứu cho thấy có 5 yếu tố tác động đến quyết định tham gia cuộc thi khởi nghiệp của sinh viên: Đặc điểm tính cách, nhận thức kiểm soát hành vi, Thái độ đối với khởi nghiệp, Môi trường giáo dục và chuẩn mực chủ quan.

Nghiên cứu “Ảnh hưởng của cố vấn đối với các dự án khởi nghiệp sáng tạo trong cuộc thi khởi nghiệp: Thực trạng Việt Nam” của tác giả Bạch Thị Thảo Nguyên và cộng sự. Sau khi phân tích 150 phản hồi thu thập được, kết quả cho thấy cố vấn có tác động tích cực đến kiến thức về tư duy và công cụ khởi nghiệp sáng tạo, động lực và đam mê khởi nghiệp sáng tạo của sinh viên và kết quả thực hiện dự án khởi nghiệp.

Nghiên cứu “Những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia nghiên cứu khoa học của sinh viên khoa quản trị kinh doanh” của tác giả Võ Vương Bách và Nguyễn Thanh Phi Vân (2022). Dữ liệu khảo sát được thu thập và làm sạch và phân tích bằng phần mềm SPSS 20. Sau đó nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích hồi quy bội để xác định mức độ các yếu tố ảnh hưởng đến ý định tham gia nghiên cứu khoa học của sinh viên. Kết quả nghiên cứu trên 250 sinh viên năm nhất và hai đang theo học khoa Quản trị kinh doanh, Đại học Nguyễn Tất Thành cho thấy có 5 nhân tố: Giảng viên, chính sách nhà trường, nhận thức của sinh viên và lợi ích khi tham gia nghiên cứu khoa học tác động tích cực đến hành vi dự định tham gia nghiên cứu khoa học của sinh viên. Trong đó lợi ích của NCKH đối với sinh viên là thành phần có tác động mạnh nhất đến hành vi dự định tham gia NCKH của sinh viên. Còn yếu tố cơ sở vật chất hầu như không có tác động và không có ý nghĩa thống kê.

Nghiên cứu “Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên ngành kỹ thuật tại Trường Đại học Công Nghiệp TP.HCM” của tác giả Nguyễn Quốc Cường và Nguyễn Minh Tú Anh (2022). Kết quả thông qua 404 số lượng mẫu từ 06 khoa chuyên ngành kỹ thuật và công nghệ cho thấy có 4 yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp. Trong đó, yếu tố tác động mạnh nhất là Giáo dục khởi nghiệp, kế đến là yếu tố Nhận thức kiểm soát hành vi và Thái độ đối với khởi nghiệp, và yếu tố chuẩn mực chủ quan tác động ít nhất đến ý định khởi nghiệp của sinh viên ngành kỹ thuật tại Trường Đại học Công Nghiệp TP.HCM.

2.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ngoài nước

Tại Đức có những học bổng cho sinh viên khởi nghiệp đối với các dự án không chỉ mang lại giá trị kinh tế mà còn các dự án khởi nghiệp mang lại giá trị xã hội (German Startups Group). Các trường đại học có chính sách công để khuyến khích tinh thần khởi nghiệp cũng như có nhiệm vụ cụ thể về hoạt động khởi nghiệp. Sự hỗ trợ cho khởi nghiệp kinh doanh còn th.ể hiện thông qua chính sách sử dụng miễn phí các phòng lab, hỗ trợ gọi vốn, lập kế hoạch kinh doanh, xây dựng mạng lưới kết nối và đào tạo về xúc tiến thương mại, kế toán. Các môn học về khởi nghiệp đã được dạy trong các chương trình giảng dạy (ITP, 2018a)

Nghiên cứu “Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định khởi nghiệp trong du lịch bền vững của sinh viên các cơ sở giáo dục đại học” của tác giả Mehraj và cộng sự (2023). Nghiên cứu này sử dụng mô hình lý thuyết hành vi có kế hoạch mở rộng (TPB) và giáo dục khởi nghiệp để phát triển một khung lý thuyết. Mô hình đã được kiểm tra trên 350 sinh viên ngành du lịch. Toàn bộ dữ liệu được nhập vào IBM AMOS 23.0 để phân tích.  Kết quả cho thấy rằng cả 4 yếu tố: (1) Thái độ đối với khởi nghiệp; (2) Nhận thức kiểm soát hành vi; (3) Chuẩn mực chủ quan; (4) Giáo dục khởi nghiệp đều có ý nghĩa thống kê và có tác động tích cực đến quyết định khởi nghiệp của sinh viên. Ngoài ra, nghiên cứu cho thấy rằng các chuẩn mực chủ quan đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định của sinh viên, vì chúng bị ảnh hưởng bởi các tiêu chuẩn và kỳ vọng của môi trường xã hội xung quanh. Nhận thức kiểm soát hành vi đã được phát hiện là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định khởi nghiệp. Sinh viên nào tin rằng họ có khả năng kiểm soát hành vi và nguồn lực của mình thì có khả năng cao hơn trong việc có những khát vọng khởi nghiệp. Bên cạnh đó Giáo dục khởi nghiệp là một yếu tố quan trọng làm tăng khả năng quyết định khởi nghiệp của sinh viên.

Nghiên cứu của Su và cộng sự (2021) về đề tài “Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên đại học tại Trung Quốc: Tích hợp sự hỗ trợ của trường đại học và lý thuyết hành vi có kế hoạch. Dữ liệu thu thập được phân tích bằng SPSS và PLS. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự hỗ trợ của đại học ảnh hưởng đáng kể đến thái độ của sinh viên đối với tinh thần khởi nghiệp, điều này cho thấy vai trò quan trọng của trường đại học trong việc hình thành tinh thần khởi nghiệp ở sinh viên. Sự hỗ trợ của đại học cũng có tác động đáng kể đến khả năng kiểm soát hành vi. Về tác động của sự hỗ trợ của đại học đối với thái độ khởi nghiệp và khả năng kiểm soát hành vi, kết quả cho thấy tác động của nó lên thái độ lớn hơn nhiều so với kiểm soát hành vi. Ý định đó không bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các chuẩn mực chủ quan.

Nghiên cứu của Shekhar và cộng sự (2018) về đề tài “Hiểu về sự tham gia của sinh viên vào các chương trình giáo dục khởi nghiệp: Một đánh giá quan trọng”. Mục đích của nghiên cứu này là phát triển một mô hình khái niệm về sự tham gia của sinh viên vào các chương trình giáo dục khởi nghiệp dựa trên các mô hình đã được thiết lập trước đây về sự tham gia của sinh viên vào các hoạt động học tập và các lý thuyết đánh giá giáo dục khởi nghiệp. Hệ thống các tài liệu bằng phương pháp Salsa (tìm kiếm, thẩm định, tổng hợp và phân tích) để xác định các lý thuyết và biến số thường được sử dụng trong các tài liệu đánh giá khởi nghiệp. Mô hình tổng quát này xác định sáu biến số đặc biệt quan trọng đối với việc tham gia chương trình giáo dục khởi nghiệp: tự tin vào năng lực khởi nghiệp; mong muốn khởi nghiệp; ý định khởi nghiệp; những bước chuyển đổi trong cuộc sống; thông tin và nguồn lực; và cơ hội và rào cản.

Nghiên cứu của Wang và cộng sự (2022) về đề tài “Tác động của các cuộc thi khởi nghiệp đến năng lực khởi nghiệp của sinh viên đại học Trung Quốc”. Sử dụng SPSS 22.0 và chương trình macro PROCESS phát triển đã được sử dụng để tiến hành làm sạch dữ liệu và phân tích dữ liệu. Kết quả cho thấy cuộc thi khởi nghiệp có tác động dự báo tích cực và đáng kể đến năng lực khởi nghiệp của sinh viên. Tinh thần khởi nghiệp đóng vai trò trung gian trong mối quan hệ giữa cuộc thi khởi nghiệp và năng lực khởi nghiệp. Thực hành khởi nghiệp điều tiết cả tác động trực tiếp của cuộc thi khởi nghiệp lên năng lực khởi nghiệp lẫn hiệu ứng trung gian thông qua tinh thần khởi nghiệp.

Nghiên cứu của Makai và Dőry (2023) về đề tài “Sự hỗ trợ và môi trường đại học được coi là yếu tố tác động đến ý định khởi nghiệp: Bằng chứng từ khu vực Tây Transdanubia”. Nghiên cứu này dựa trên một cuộc khảo sát được thực hiện với sinh viên theo học tại một trường đại học khoa học ứng dụng Hungary ở vùng Tây Transdanubia, những người đã thể hiện cam kết khởi nghiệp của mình bằng cách tham gia một chương trình đào tạo và ươm tạo khởi nghiệp quốc gia. Phân tích bằng mô hình SEM. Kết quả cho thấy: (1) thái độ đối với hành vi và (2) nhận thức kiểm soát hành vi đều tác động tích cực đến ý định khởi nghiệp (nhận thức kiểm soát cũng làm tăng thái độ); (3) chuẩn mực xã hội cảm nhận làm tăng thái độ nhưng không ảnh hưởng đáng kể đến kiểm soát hành vi; (4) hỗ trợ của nhà trường làm tăng kiểm soát hành vi; (5) rào cản nhận thức/nội tại làm giảm thái độ và kiểm soát hành vi; (6) rào cản bên ngoài không tác động trực tiếp đến thái độ/kiểm soát nhưng làm gia tăng rào cản nội tại; (7) môi trường đại học không ảnh hưởng trực tiếp đến thái độ, song tương quan chặt chẽ với hỗ trợ của nhà trường có tác động dương với chuẩn mực xã hội.

3. Cơ sở lý thuyết  và khái niệm liên quan

3.1. Lý thuyết nền tảng

- Lý thuyết hành vi hoạch định (Theory of Planned Behaviour – TPB)Ajzen (1991) phát triển TPB dựa trên mô hình Hành động hợp lý (TRA) (Ajzen & Fishbein, 1975), cho rằng hành vi của cá nhân được quyết định bởi ý định thực hiện hành vi đặc biệt là trong lĩnh vực khởi nghiệp. Lý thuyết này giải thích rằng hành vi của cá nhân không chỉ phụ thuộc vào ý muốn mà còn chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi ý định hành vi và nhận thức về khả năng kiểm soát hành vi đó. TPB đã được kiểm chứng và áp dụng thành công trong nhiều nghiên cứu về ý định khởi nghiệp trên khắp thế giới, bao gồm cả Việt Nam, cho thấy tính phổ quát và khả năng giải thích mạnh mẽ của lý thuyết này. Ý định này chịu ảnh hưởng của ba yếu tố: (1) thái độ đối với hành vi - mức độ đánh giá tích cực hay tiêu cực về hành vi; (2) chuẩn chủ quan - áp lực xã hội cảm nhận từ người xung quanh; và (3) nhận thức kiểm soát hành vi - cảm nhận về khả năng, nguồn lực và cơ hội để thực hiện hành vi.

- Lý thuyết sự kiện khởi nghiệp (The Entrepreneurial Event Theory – SEE)Theo Shapero và Sokol (1982), hành vi khởi nghiệp là kết quả của những biến cố quan trọng trong cuộc sống và chịu ảnh hưởng bởi thái độ cá nhân đối với khởi nghiệp, gồm hai yếu tố chính: cảm nhận về tính khả thi và cảm nhận về mong muốn khởi nghiệp. Khi cá nhân nhận thấy cơ hội khởi nghiệp vừa khả thi vừa hấp dẫn, ý định khởi nghiệp sẽ được hình thành.

3.2. Khái niệm liên quan

- Khái niệm Khởi nghiệp: Theo MacMillan (1993) và Koe và cộng sự (2012), khởi nghiệp là quá trình cá nhân chấp nhận rủi ro để tạo lập doanh nghiệp mới hoặc phát triển ý tưởng kinh doanh sáng tạo nhằm khai thác cơ hội và đạt lợi ích kinh tế. Pedrini và cộng sự (2017) cho rằng đây là việc hình thành một tổ chức mới dựa trên nguồn lực sẵn có hoặc huy động được.

- Khái niệm quyết định: Theo Simon (1986), ra quyết định là quá trình lựa chọn hành động tối ưu trong số các khả năng để giải quyết vấn đề. Mintzberg và cộng sự (1976) xem quyết định là sự cam kết hành động và phân bổ nguồn lực nhằm đạt được mục tiêu.

- Khái niệm về cuộc thi khởi nghiệp: Cuộc thi khởi nghiệp là một hoạt động trong hệ sinh thái khởi nghiệp, tạo cơ hội cho sinh viên và cá nhân rèn luyện kỹ năng, phát triển ý tưởng sáng tạo và kết nối mạng lưới kinh doanh (O’Connor và cộng sự, 2018; Watson & McGowan, 2019). Theo Passaro và cộng sự (2017), đây là bước chuyển từ ý định sang hành động khởi nghiệp, đồng thời là hình thức học tập trải nghiệm giúp người tham gia củng cố kiến thức và tăng cường sự tự tin (Schwartz, 2013).

4. Đề xuất mô hình nghiên cứu

4.1. Giả thuyết nghiên cứu

Nhận thức tính khả thi: nhận thức tính khả thi thể hiện mức độ sinh viên tin tưởng vào năng lực bản thân để có thể thực hiện ý tưởng hoặc hoàn thành các yêu cầu của cuộc thi (Ajzen, 1991; Nguyễn Văn Định và cộng sự, 2022). Khi sinh viên cảm nhận rằng họ có đủ kỹ năng, nguồn lực và sự tự tin, họ sẽ có xu hướng tham gia cuộc thi nhiều hơn. Việc đánh giá chủ quan của sinh viên về khả năng thực hiện thành công các hoạt động liên quan đến khởi nghiệp, trong đó bao gồm cả việc tham gia và cạnh tranh trong các cuộc thi khởi nghiệp. Yếu tố này phản ánh mức độ tin tưởng của sinh viên vào bản thân trong việc hoàn thành các nhiệm vụ cần thiết như phát triển ý tưởng kinh doanh, lập kế hoạch, thuyết trình trước ban giám khảo, và làm việc nhóm hiệu quả. Nhận thức tính khả thi có mối quan hệ chặt chẽ với khái niệm tự tin năng lực khởi nghiệp (entrepreneurial self-efficacy) - niềm tin của cá nhân vào năng lực của mình để thực hiện thành công các vai trò và nhiệm vụ của một doanh nhân. Khi sinh viên có nhận thức tính khả thi cao, họ sẽ cảm thấy tự tin hơn về khả năng vượt qua các thách thức trong quá trình tham gia cuộc thi và có xu hướng chủ động tham gia nhiều hơn.

Trong bối cảnh tham gia cuộc thi khởi nghiệp, nhận thức tính khả thi đóng vai trò đặc biệt quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định có tham gia hay không của sinh viên. Sinh viên có nhận thức tính khả thi cao sẽ đánh giá rằng họ có đủ kiến thức, kỹ năng và nguồn lực cần thiết để tham gia cuộc thi một cách hiệu quả. Ngược lại, những sinh viên có nhận thức tính khả thi thấp có thể cảm thấy lo lắng về năng lực của mình và do đó ngần ngại tham gia, ngay cả khi họ có ý tưởng tốt. Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc các trường đại học cần tạo ra các cơ hội để sinh viên phát triển và nâng cao nhận thức tính khả thi thông qua các khóa học, tập huấn và các hoạt động thực hành liên quan đến khởi nghiệp.

Giả thuyết H1: Nhận thức tính khả thi có tác động thuận chiều đến quyết định tham gia cuộc thi khởi nghiệp nông nghiệp của sinh viên

Thái độ tham gia cuộc thi: là một trong ba thành phần cốt lõi của Lý thuyết Hành vi Có Kế hoạch, phản ánh mức độ đánh giá tích cực hay tiêu cực của sinh viên đối với việc tham gia các cuộc thi về khởi nghiệp. Thái độ này được hình thành dựa trên niềm tin của sinh viên về các kết quả mà việc tham gia cuộc thi có thể mang lại và đánh giá của họ về giá trị của những kết quả đó. Khi sinh viên nhận thức được những lợi ích thiết thực và có ý nghĩa từ việc tham gia cuộc thi như cơ hội học hỏi kinh nghiệm quý báu, mở rộng mạng lưới quan hệ với các chuyên gia và nhà đầu tư, nhận được hỗ trợ chuyên môn từ mentor, phát triển các kỹ năng mềm như làm việc nhóm và thuyết trình, cũng như có cơ hội thực tế để biến ý tưởng khởi nghiệp thành hiện thực, họ sẽ có xu hướng hình thành thái độ tích cực và mong muốn tham gia cuộc thi. Nếu sinh viên tin rằng cuộc thi mang lại giá trị về tri thức, kỹ năng, cơ hội kết nối và phát triển bản thân, họ sẽ hình thành thái độ tích cực và sẵn sàng tham gia (Terán-Pérez và cs., 2021; Đỗ Thị Trang & Nguyễn Đình Hoàng, 2023).

Thái độ tích cực đối với việc tham gia cuộc thi không chỉ đơn thuần là sự thích thú mà còn bao gồm sự đánh giá cẩn trọng về chi phí - lợi ích của việc tham gia. Sinh viên cần cân nhắc giữa thời gian và công sức bỏ ra với những giá trị họ có thể nhận được.Những sinh viên có thái độ tích cực thường nhìn nhận các cuộc thi khởi nghiệp không chỉ là nơi cạnh tranh để giành giải thưởng, mà còn là cơ hội quý báu để phát triển bản thân, kiểm nghiệm ý tưởng kinh doanh trong môi trường thực tế có sự giám sát và hỗ trợ của các chuyên gia, đồng thời xây dựng nền tảng cho hành trình khởi nghiệp trong tương lai.

Giả thuyết H2: Thái độ đối với khởi nghiệp có tác động thuận chiều đến quyết định tham gia cuộc thi khởi nghiệp nông nghiệp của sinh viên

Đặc điểm tính cách: Đặc điểm tính cách cá nhân đóng vai trò then chốt trong việc hình thành ý định và quyết định tham gia các hoạt động khởi nghiệp, bao gồm cả việc tham gia các cuộc thi khởi nghiệp. Tính cách là tập hợp các đặc điểm tâm lý ổn định và nhất quán của cá nhân, ảnh hưởng đến cách họ suy nghĩ, cảm nhận và hành động trong các tình huống khác nhau. Trong nghiên cứu về khởi nghiệp, Mô hình Năm nhân tố tính cách lớn (Big Five Personality Model) được sử dụng rộng rãi và được coi là một trong những mô hình toàn diện nhất để đo lường tính cách con người. Mô hình này bao gồm năm đặc điểm chính: sự cởi mở với trải nghiệm mới (openness to experience) - thể hiện sự tò mò, sáng tạo và sẵn sàng thử nghiệm những điều mới mẻ; tính tận tâm (conscientiousness) - phản ánh sự có tổ chức, kỷ luật và trách nhiệm; hướng ngoại (extraversion) - liên quan đến mức độ hoạt bát, năng động và khả năng giao tiếp xã hội; hòa đồng (agreeableness) - thể hiện tính hợp tác, quan tâm đến người khác; và sự ổn định cảm xúc (emotional stability) - khả năng kiểm soát cảm xúc và đối phó với căng thẳng. Ngoài ra, đặc điểm tính cách phản ánh những yếu tố thuộc về bản thân mỗi cá nhân như mức độ tự tin, nhu cầu thành đạt, khả năng chấp nhận rủi ro và xu hướng sáng tạo (Luthje & Franke, 2003; Nguyễn Thị Bích Liên, 2020).

Trong bối cảnh tham gia cuộc thi khởi nghiệp, những đặc điểm tính cách như sự cởi mở với trải nghiệm mới giúp sinh viên sẵn sàng tham gia vào một môi trường cạnh tranh mới; tính tận tâm giúp họ có kỷ luật để chuẩn bị kỹ lưỡng cho cuộc thi; hướng ngoại giúp họ tự tin trong việc networking và thuyết trình; trong khi xu hướng chấp nhận rủi ro và nhu cầu thành tựu cao thúc đẩy họ vượt qua nỗi sợ thất bại và mong muốn chứng minh năng lực của mình. Việc hiểu rõ vai trò của các đặc điểm tính cách sẽ giúp các nhà giáo dục và ban tổ chức cuộc thi thiết kế các chương trình phù hợp để phát huy điểm mạnh và hỗ trợ khắc phục điểm yếu trong tính cách của sinh viên, từ đó nâng cao tỷ lệ tham gia và chất lượng của các dự án dự thi.

Giả thuyết H3: Đặc điểm tính cách có tác động dương đến quyết định tham gia cuộc thi khởi nghiệp nông nghiệp của sinh viên

Môi trường giáo dục khởi nghiệp: Môi trường giáo dục khởi nghiệp tích cực và hỗ trợ có thể tạo ra những tác động sâu rộng đến nhận thức, thái độ và hành vi của sinh viên đối với khởi nghiệp. Khi sinh viên được học các khóa học về khởi nghiệp với nội dung thực tế và phương pháp giảng dạy tương tác, được tham gia các câu lạc bộ khởi nghiệp, được tiếp xúc với các doanh nhân thành công, được tiếp cận các nguồn lực hỗ trợ và được khuyến khích thử nghiệm các ý tưởng mới, họ sẽ có xu hướng phát triển thái độ tích cực hơn về khởi nghiệp và cảm thấy tự tin hơn về khả năng của mình. Môi trường giáo dục khởi nghiệp không chỉ cung cấp kiến thức kỹ thuật mà còn giúp sinh viên xây dựng mạng lưới quan hệ, phát triển tư duy khởi nghiệp và tạo ra cảm giác an toàn để họ dám thử nghiệm và chấp nhận rủi ro.

Môi trường giáo dục phản ánh mức độ trường đại học cung cấp các chương trình, hoạt động, khóa học và không gian học tập định hướng khởi nghiệp (Martins và cộng sự, 2022; Fragoso và cộng sự, 2020). Một môi trường giáo dục năng động, khuyến khích sáng tạo và hỗ trợ ý tưởng khởi nghiệp sẽ nâng cao khả năng sinh viên tham gia các cuộc thi.

Giả thuyết H4: Môi trường giáo dục khởi nghiệp có tác động dương đến quyết định tham gia cuộc thi khởi nghiệp nông nghiệp của sinh viên

Đặc điểm cuộc thi: Các cuộc thi khởi nghiệp tại Việt Nam, đặc biệt là tại Thành phố Hồ Chí Minh, có sự đa dạng về quy mô và đặc điểm. Theo thông tin từ Bộ Giáo dục và Đào tạo, cuộc thi "Học sinh, sinh viên với ý tưởng khởi nghiệp" được tổ chức với mục tiêu rõ ràng là tìm kiếm các dự án, ý tưởng khởi nghiệp khả thi của học sinh, sinh viên; hỗ trợ ươm tạo để từng bước thành lập các doanh nghiệp khởi nghiệp; thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, trang bị kiến thức, kỹ năng về khởi nghiệp; và tạo môi trường để học sinh, sinh viên hình thành và hiện thực hóa các ý tưởng, giải pháp, dự án khởi nghiệp tạo giá trị cho bản thân, gia đình, cộng đồng và xã hội. Các mục tiêu này thể hiện tầm nhìn dài hạn về phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp. Đặc điểm cuộc thi Khởi nghiệp bao gồm các yếu tố như chủ đề, quy mô, tính minh bạch, mức độ hấp dẫn, giải thưởng, cơ hội học hỏi và liên kết với doanh nghiệp. Các nghiên cứu thực tế cho thấy khi cuộc thi được tổ chức bài bản và phù hợp với chuyên ngành, sinh viên sẽ có động lực cao hơn trong việc tham gia (Nguyễn Thị Bích Liên, 2020).

Giả thuyết H5: Đặc điểm cuộc thi có tác động dương đến quyết định tham gia cuộc thi khởi nghiệp nông nghiệp của sinh viên

Hỗ trợ tham gia cuộc thi: Hỗ trợ tham gia cuộc thi là tổng hợp các nguồn lực, dịch vụ và hoạt động mà sinh viên nhận được từ ban tổ chức cuộc thi, nhà trường, các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp và cộng đồng để giúp họ chuẩn bị tốt hơn và tham gia hiệu quả hơn vào các cuộc thi khởi nghiệp Yếu tố này phản ánh mức độ hỗ trợ về thông tin, tài chính, thời gian, cơ sở vật chất và tinh thần từ nhà trường, khoa, giảng viên hoặc bạn bè (Zanabazar & Jigjiddorj, 2020). Khi sinh viên nhận được sự hỗ trợ đầy đủ, rào cản tham gia giảm xuống và ý định tham gia tăng lên.

Các hình thức hỗ trợ này có thể bao gồm chương trình đào tạo và workshop về các kỹ năng cần thiết như lập kế hoạch kinh doanh, phân tích thị trường, quản lý tài chính, marketing, và kỹ năng thuyết trình; hỗ trợ mentor từ các doanh nhân và chuyên gia giàu kinh nghiệm; cung cấp tài liệu và công cụ hỗ trợ; tạo cơ hội networking với các đội thi khác và các bên liên quan; hỗ trợ tài chính cho việc phát triển prototype hoặc thực hiện nghiên cứu thị trường; và tư vấn về các vấn đề pháp lý, kỹ thuật liên quan đến dự án. Sự hiện diện và chất lượng của các hình thức hỗ trợ này có thể làm giảm đáng kể các rào cản và lo ngại của sinh viên về việc tham gia cuộc thi khởi nghiệp, đồng thời tăng cường niềm tin và động lực của họ.

Giả thuyết H6: Hỗ trợ tham gia cuộc thi có tác động dương đến quyết định tham gia cuộc thi khởi nghiệp nông nghiệp của sinh viên

Tác động của người xung quanh (Chuẩn mực chủ quan): Yếu tố này mô tả mức độ ảnh hưởng của gia đình, bạn bè, thầy cô và cộng đồng đến quyết định của sinh viên (Ajzen, 1991; Nguyễn Văn Định và cộng sự, 2022). Trong Lý thuyết Hành vi Có Kế hoạch được gọi là chuẩn chủ quan, phản ánh áp lực xã hội hoặc sự hỗ trợ được cảm nhận mà sinh viên nhận được từ những người có ý nghĩa quan trọng trong cuộc sống của họ khi ra quyết định tham gia các hoạt động khởi nghiệp và cuộc thi khởi nghiệp. Những người này có thể bao gồm gia đình (cha mẹ, anh chị em), bạn bè thân thiết, giảng viên và thầy cô giáo, đồng nghiệp trong các hoạt động học tập và ngoại khóa, và thậm chí cả những người mẫu mực (role models) như các doanh nhân thành công mà sinh viên ngưỡng mộ. Ý kiến, quan điểm và thái độ của những người này đối với khởi nghiệp nói chung và việc tham gia cuộc thi khởi nghiệp nói riêng có thể tạo ra ảnh hưởng đáng kể đến quyết định của sinh viên. Sự ủng hộ và khuyến khích từ những người quan trọng có thể làm tăng động lực và tự tin của sinh viên, trong khi sự phản đối hoặc thiếu hỗ trợ có thể tạo ra rào cản tâm lý khiến sinh viên ngần ngại tham gia cuộc thi khởi nghiệp.

Giả thuyết H7: Tác động của người xung quanh có tác động dương đến quyết định tham gia cuộc thi khởi nghiệp nông nghiệp của sinh viên

z7356949106342_e756e3c21b3ad262aa044ed130b491cd

5. Phương pháp nghiên cứu dự kiến

Nghiên cứu được triển khai theo thiết kế hai giai đoạn.

Giai đoạn 1 (định tính) nhằm phát triển và chuẩn hóa thang đo: trên cơ sở tổng quan lý thuyết TPB và SEE, nhóm tác giả xây dựng bản thảo mục hỏi cho các cấu trúc nghiên cứu. Bản thảo được phản biện nội dung thông qua thảo luận nhóm chuyên gia (giảng viên, cố vấn khởi nghiệp) và phỏng vấn sâu sinh viên đại diện các khóa, qua đó hiệu chỉnh ngữ nghĩa, loại mục trùng lặp và bảo đảm bao phủ nội dung.

Giai đoạn 2 (định lượng cắt ngang) dùng bảng hỏi tự khai ẩn danh với thang Likert 5 mức để đo lường các nhóm yếu tố cá nhân và nhóm yếu tố môi trường và quyết định tham gia cuộc thi Khởi Nghiệp Nông Nghiệp của sinh viên. Đối tượng là toàn bộ sinh viên chính quy đã và đang theo học tại Trường Đại học Nông Lâm TP.HCM. Mẫu được phân tầng tỷ lệ theo các khoa và năm học, sau đó chọn trong tầng theo cách thuận tiện có kiểm soát để bảo đảm tính đại diện; cỡ mẫu mục tiêu ≥300.

Dữ liệu được thu thập bằng bảng hỏi trực tuyến (Google Forms) kết hợp phát phiếu trực tiếp cho sinh viên, sau đó làm sạch và mã hóa trên Excel trước khi phân tích toàn bộ bằng SPSS. Quy trình gồm: thống kê mô tả; kiểm định độ tin cậy thang đo bằng Cronbach’s α; đánh giá tính thích hợp dữ liệu bằng KMO và Bartlett; thực hiện EFA để xác định cấu trúc nhân tố. Các giả thuyết trong mô hình được kiểm định bằng hồi quy đa biến nhằm đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia cuộc thi Khởi nghiệp nông nghiệp của sinh viên trường Đại học Nông Lâm TP.HCM, đồng thời phân tích khác biệt giữa các nhóm bằng Independent-samples t-test và ANOVA khi phù hợp.

6. Kết luận

Tổng quan học thuật về quyết định tham gia cuộc thi của sinh viên cho thấy các mô hình trước đây rất đa dạng về thành phần và thang đo. Nghiên cứu này đã hệ thống hóa cơ sở lý luận, kế thừa lý thuyết TPB và SEE, đồng thời qua định tính (thảo luận chuyên gia, phỏng vấn sinh viên), quy trình phân tích, tổng hợp để đề xuất mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia cuộc thi Khởi nghiệp Nông nghiệp của sinh viên bối cảnh tại Trường Đại học Nông Lâm TP.HCM. Mô hình đề xuất gồm bảy yếu tố: nhận thức tính khả thi, thái độ tham gia cuộc thi, đặc điểm tính cách, môi trường giáo dục khởi nghiệp, đặc điểm cuộc thi, sự hỗ trợ tham gia và tác động của người xung quanh.

Mô hình được xem như nền tảng cho giai đoạn nghiên cứu định lượng tiếp theo phục vụ các nhà nghiên cứu và nhà quản lý. Dữ liệu sẽ được phân tích trên SPSS, bao gồm: kiểm định độ tin cậy thang đo bằng Cronbach’s α, phân tích nhân tố khám phá (EFA) để xác lập cấu trúc đo lường và hồi quy tuyến tính nhằm nhận diện các nhân tố có ý nghĩa thống kê cũng như ước lượng cường độ tác động của chúng. Những bằng chứng định lượng thu được kỳ vọng cung cấp cơ sở khoa học cho việc thiết kế chương trình giáo dục khởi nghiệp, hoàn thiện cơ chế hỗ trợ và tối ưu hóa cấu trúc cuộc thi, qua đó nâng cao tỷ lệ sinh viên tham gia.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Su, Y., Zhu, Z., Chen, J., Jin, Y., Wang, T., Lin, C. L., & Xu, D. (2021). Factors influencing entrepreneurial intention of university students in China: integrating the perceived university support and theory of planned behavior. Sustainability, 13(8), 4519.

[2].  Shekhar, P., Aileen, H. S., & Libarkin, J. (2018). Understanding student participation in entrepreneurship education programs: a critical review. International Journal of Engineering Education, 34(3), 1060-1072.

[3].  Wang, J., Guo, Y., Zhang, M., Li, N., Li, K., Li, P., ... & Huang, Y. (2022). The impact of entrepreneurship competitions on entrepreneurial competence of Chinese college students. Frontiers in Psychology, 13, 784225.

[4]. Makai, A. L., & Dőry, T. (2023). Perceived university support and environment as a factor of entrepreneurial intention: Evidence from Western Transdanubia Region. Plos one, 18(6), e0283850.

[5]. MacMillan, I. C. (1993). The emerging forum for entrepreneurship scholars. Journal of Business Venturing, 8(5), 377-381.

[6]. Ajzen, I. (1991). The theory of planned behavior. Organizational behavior and human decision processes, 50(2), 179-211.

[7]. Simon, H. A. & Associates (1986). Decision  Making and Problem  Solving. Journal on Applied Analytics. 17(5),11-31.

[8]. Nguyễn Thị Bích Liên (2020). Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên: Nghiên cứu trường hợp sinh viên trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí Công Thương, 18(1).

[9]. Nguyễn Văn Định, Lê Thị Mai Hương, Cao Thị Sen (2022). Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên Trường Đại học Nam Cần Thơ. Tạp Chí Khoa Học Đại Học Mở Thành Phố Hồ Chí Minh-Kinh Tế Và Quản Trị Kinh Doanh, 17(2), 52-68.

[10]. Đỗ Thị Trang và Nguyễn Đình Hoàng (2023). Những yếu tố ảnh hưởng tới quyết định tham gia các cuộc thi khởi nghiệp tạo tác động xã hội tại Việt Nam. UEH Journal of Science: Economics and Business, 602-615.

Xin chân thành cảm ơn Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh đã tài trợ kinh phí để thực hiện nghiên cứu này (Mã số: CS-CB25-UTDN-01)

Phạm Chí Biết, Nguyễn Đỗ Ngọc Hân

Nguyễn Thị Ánh Nguyệt, Hoàng Minh Phượng

Trường Đại học Nông Lâm TP. HCM

Tạp chí in số tháng 12/2025

Tin liên quan

Nhà sáng lập LoveMath: Người 'sư phạm' khởi nghiệp bằng trái tim và tri thức
Với tình yêu toán học và khát khao mang đến môi trường học tập chất lượng, cô giáo Phạm Thị Liên đã sáng lập LoveMath với những phương pháp dạy, học đặc biệt. Sau 10 năm, LoveMath là một trong những đơn vị giáo dục uy tín tại Nghệ An, minh chứng cho tinh thần “khởi nghiệp tri thức” của nhà giáo hiện đại.
Hội chợ Kết nối Khởi nghiệp - Kawai Startup Fair 2025
Ngày 24/05, CLB Nhà Doanh nghiệp Tương lai Trường ĐH Ngoại thương (TEC FTU) đã tổ chức thành công Hội chợ Kết nối Khởi nghiệp - Kawai Startup Fair, đánh dấu một bước tiến nổi bật trong hành trình 20 năm phát triển của cuộc thi Khởi nghiệp cùng Kawai.

x