Phòng ngừa và xử lý rủi ro trong quản lý thuế

27/03/2019, 10:02

TCDN - Quản lý rủi ro trong quản lý thuế được Tổng cục Thuế triển khai từ năm 2011. Đến nay, việc đánh giá và phân loại người nộp thuế (NNT) theo các tiêu chí phân loại rủi ro đã được thực hiện ở gần như tất cả các khâu của quá trình quản lý thuế.


Bài viết này tập trung phân tích về thực trạng sử dụng các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro cơ quan thuế đang triển khai. Đồng thời đưa ra một số đề xuất nhằm thực hiện có hiệu quả hơn việc phòng ngừa, xử lý rủi ro trong quản lý thuế.

1. Quản lý rủi ro trong quản lý thuế là gì?

Theo Ủy ban các cộng đồng châu Âu (gọi tắt là Ủy ban châu Âu, viết tắt là EC) quản lý rủi ro được định nghĩa là một quy trình quản lý mang tính hệ thống trong đó các cơ quan thuế lựa chọn một cách kỹ càng những công cụ xử lý hiệu quả nhằm tăng tính tuân thủ và hạn chế sự vi phạm pháp luật về thuế dựa trên năng lực có sẵn và những hiểu biết về hành vi của người nộp thuế (EC, 2010, trang 5). Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), quản lý rủi ro là một quá trình quản lý mang tính hệ thống trong việc xác định, đánh giá, xếp hạng, và xử lý các loại rủi ro liên quan tới việc tuân thủ pháp luật thuế (ví dụ như rủi ro không đăng ký nộp thuế, không báo cáo đúng nghĩa vụ thuế…). Ngoài ra, cũng giống như công tác quản lý rủi ro nói chung, đây là một quá trình lặp đi lặp lại bao gồm các bước đã được xác định nhằm hỗ trợ cho việc đưa ra các quyết định của cơ quan quản lý (OECD, 2004, trang 8). Tuy nhiên đến năm 2010, OECD đã cải thiện bản hướng dẫn quản lý rủi ro năm 2004, trong đó, khái niệm quản lý rủi ro được định nghĩa là quy trình quản lý dựa trên sự hiểu biết và sự xác định các yếu tố ảnh hưởng tới hành vi của người nộp thuế và thái độ của họ đối với việc tuân thủ pháp luật thuế, từ đó thực hiện các biện pháp thích hợp để xử lý các hành vi không tuân thủ một cách hiệu quả (OECD, 2010).
Tóm lại, quản lý rủi ro về thuế là việc cơ quan thuế nhận diện, đánh giá rủi ro tuân thủ thuế trên cơ sở thu thập và xử lý thông tin về hành vi của NNT, từ đó xây dựng quy trình quản lý và thực hiện các biện pháp xử lý đối với những đối tượng có rủi ro cao nhằm nâng cao tính tuân thủ pháp luật về thuế.

2. Các nội dung cơ bản của quản lý rủi ro về thuế

OECD và EC có những hướng dẫn riêng về quản lý rủi ro trong quản lý thuế. Mặc dù có những điểm khác nhau nhất định nhưng những nội dung cơ bản của quản lý thuế thì tương đối giống nhau và bao gồm các giai đoạn: nhận diện rủi ro, phân tích rủi ro, đánh giá rủi ro, xử lý rủi ro và tự đánh giá công tác rủi ro.

Công tác nhận diện rủi ro yêu cầu nhà quản lý phải phát hiện được các thông tin liên quan tới loại rủi ro, mức độ nhận diện, phương thức nhận diện rủi ro và kết quả nhận diện rủi ro.

Các rủi ro sau khi được nhận diện trong giai đoạn đầu tiên sẽ được phân tích, đánh giá dựa theo các tiêu chí như: mức độ thường xuyên (số lượng đối tượng có rủi ro), mức độ nghiêm trọng (khả năng rủi ro sẽ xảy ra) và hậu quả do rủi ro gây ra (tiền, hiện vật...). Thông thường, công tác phân tích rủi ro được thực hiện với sự hỗ trợ của hệ thống máy tính bởi khối lượng dữ liệu rất lớn. Tuy nhiên, trong một số trường hợp có thể được thực hiện bởi các nhân viên phân tích có chuyên môn cao.

Xếp hạng rủi ro nhằm thực hiện mục tiêu lựa chọn những đối tượng nộp thuế có nguy cơ rủi ro cao nhất để xử lý. Khi đánh giá và xếp hạng rủi ro, việc xem xét khả năng xảy ra và hậu quả của rủi ro xảy ra là cần thiết. Điều này có thể được thể hiện qua việc xây dựng ma trận xếp hạng rủi ro.

Giai đoạn tiếp theo là áp dụng biện pháp xử lý rủi ro thích hợp đúng lúc và đúng cách. Hiện nay các biện pháp này được phân loại theo ba nhóm lớn là hoán chuyển rủi ro, giảm thiểu rủi ro, trung hòa rủi ro.

Giai đoạn cuối cùng của quá trình quản lý rủi ro là giai đoạn đánh giá và giai đoạn này có thể diễn ra ở các cấp độ khác nhau. Điều quan trọng cần lưu ý là quản lý rủi ro là một quá trình mang tính chu kỳ, trong đó đánh giá cần được tiến hành có hệ thống trong từng giai đoạn của quá trình này nhằm xây dựng vòng tròn quản lý rủi ro hiệu quả. Có hai loại đánh giá cơ bản đó là đánh giá về tác động (tính hiệu lực) và đánh giá về quá trình. Trong khi phương thức đánh giá tác động thiên về đo lường các chương trình, chính sách hoặc sự can thiệp của cơ quan thuế có tác động như thế nào đối với bất kỳ sự thay đổi trong hành vi tuân thủ thì phương thức đánh giá quá trình tập trung trả lời câu hỏi quản lý rủi ro như thế nào và tại sao nó hoạt động hiệu quả hay không hiệu quả.

3. Một số đề xuất

Để phòng ngừa và hạn chế các rủi ro trong quản lý thuế, thời gian tới cơ quan thuế cần tập trung vào các giải pháp sau:

- Thúc đẩy công tác tuyên truyền hỗ trợ cho NNT

Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng, chuẩn mực đạo đức xã hội có tác động cùng chiều tới hành vi tuân thủ thuế của doanh nghiệp lớn. Vì vậy, tăng cường tuyên truyền cho doanh nghiệp nhằm nâng cao ý thức về chuẩn mực đạo đức xã hội sẽ có tác động tích cực trong quản lý thuế. Cơ quan thuế cần thực hiện tuyên truyền rộng rãi về thuế thông qua việc mở chuyên trang, chuyên mục về thuế trên các báo đài phát thanh, đài truyền hình, mở chuyên mục về thuế trên Đài Tiếng nói Việt Nam, chương trình truyền hình và các đầu báo lớn có tầm ảnh hưởng rộng. Thường xuyên tổ chức các cuộc họp báo, trả lời phỏng vấn trên các phương tiện thông tin đại chúng, tuyên truyền qua panô, áp phích, băng rôn. Xây dựng các ấn phẩm, audio, video clip, tờ rơi quảng bá về dịch vụ thuế trên các kênh tuyên truyền. Thông báo kịp thời trên trang thông tin danh sách các doanh nghiệp bỏ trốn, mất tích, danh sách doanh nghiệp thuộc loại rủi ro cao về thuế thực hiện mua hóa đơn do cơ quan thuế phát hành, dánh sách các doanh nghiệp bán hàng, hoàn thuế GTGT cho người nước ngoài, thường xuyên cập nhật văn bản chính sách hướng dẫn mới về thuế, tuyên truyền mở rộng dịch vụ nộp thuế điện tử cho người nộp thuế.

Bên cạnh đó, cần thường xuyên gặp gỡ, đối thoại doanh nghiệp, để lắng nghe, tập hợp những khó khăn, vướng mắc về chính sách, cơ chế để kiến nghị cấp có thẩm quyền tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp theo hướng cải cách thủ tục hành chính, công khai, minh bạch, giảm chi phí tuân thủ cho NNT và Nhà nước. Tăng cường, đẩy mạnh công tác hỗ trợ NNT ở tất cả các khâu, các bộ phận, các lĩnh vực dưới nhiều hình thức đa dạng, phong phú, giúp NNT nắm bắt đầy đủ, kịp thời các chính sách, pháp luật thuế mới. Tổ chức triển khai, thực hiện đồng bộ, kịp thời, hiệu quả các chính sách pháp luật thuế mới, đặc biệt là Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, các Nghị định, Thông tư hướng dẫn về cải cách thủ tục hành chính, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện công tác xã hội hóa hoạt động hỗ trợ NNT. Nâng cao chất lượng phục vụ NNT ở tất cả các bộ phận, thực hiện nghiêm túc việc công khai minh bạch các nội dung chính sách thuế mới, các quy trình, quy định của ngành để NNT dễ tiếp cận, nắm bắt và chấp hành tốt chính sách pháp luật thuế. Tuyên dương kịp thời thành tích của các tổ chức, cá nhân có ý thức chấp hành tốt nghĩa vụ nộp thuế, đóng góp số thu lớn cho ngân sách nhà nước. Xây dựng đề án Trung tâm hỗ trợ NNT của Tổng cục Thuế. Xây dựng và triển khai dịch vụ nộp thuế điện tử và hỗ trợ NNT trực tuyến tập trung tại Tổng cục Thuế theo nhóm đối tượng và theo thủ tục hành chính. Giải quyết nhanh chóng các hồ sơ xin cấp mới chứng chỉ hành nghề làm dịch vụ về thuế và quản lý NNT, đẩy mạnh việc phát triển hệ thống đại lý thuế vì sự xuất hiện của các đại lý thuế sẽ hỗ trợ rất nhiều cho doanh nghiệp.

- Nâng cao hiệu quả công tác thanh kiểm tra NNT

Cần đẩy mạnh công tác thanh, kiểm tra tại trụ sở NNT và triển khai hiệu quả các chuyên đề. Định kỳ hàng tuần, hàng tháng có tổng hợp, đánh giá, rút kinh nghiệm, đúc rút kỹ năng từ công tác thanh tra các đơn vị thuộc chuyên đề để các đoàn thanh tra hỗ trợ nhau về vướng mắc, chính sách, chế độ khi thanh tra các đơn vị khác trong cùng chuyên đề. Thay đổi phương thức thanh, kiểm tra truyền thống, từng bước xây dựng và hoàn thiện kỹ năng thanh tra điện tử. Tập trung thanh tra các chuyên đề mũi nhọn, mang tính cấp thiết trong xã hội như: chuyên đề doanh nghiệp kinh doanh vận tải, taxi doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm sử dụng hóa đơn trực tiếp, doanh nghiệp có phát sinh phí bản quyền và chuyển giao công nghệ, chuyên đề về công tác hoàn thuế… Tập trung thanh, kiểm tra chống thất thu ngân sách, đặc biệt nhắm vào các doanh nghiệp có giao dịch liên kết, có dấu hiệu chuyển giá, kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh lỗ hoặc có số thuế nợ lớn, doanh nghiệp được hưởng ưu đãi miễn giảm, các doanh nghiệp cổ phần hóa. Lĩnh vực thanh tra cần tập trung như: chuyển nhượng vốn, ngân hàng, dược phẩm, bất động sản, điện, dầu khí, bưu chính viễn thông, khoáng sản.

Cần chú trọng đánh giá rủi ro trọng yếu. Xây dựng ứng dụng phần mềm để hỗ trợ kết xuất thông tin hồ sơ khai thuế của NNT thống nhất và chính xác phục vụ cho công tác phân tích rủi ro của bộ phận thanh tra, kiểm tra thuế trước khi tiến hành thanh kiểm tra tại trụ sở NNT. Nâng cấp và hoàn thiện hợp nữa công cụ hỗ trợ lập hồ sơ thanh, kiểm tra tự động để rút ngắn thời gian, đẩy nhanh tiến độ các cuộc thanh, kiểm tra. Các đoàn thanh, kiểm tra phân tích rủi ro trên cơ sở nguồn dữ liệu tập trung. Khi phân tích lập kế hoạch thanh, kiểm tra sẽ chấm điểm tiêu chí rủi ro kết hợp các thông tin trong quá trình quản lý thuế và kỹ năng nhận diện rủi ro trọng yếu theo từng ngành nghề, lĩnh vực, nhóm doanh nghiệp để nhận định rủi ro trọng yếu nhưng đồng thời cũng phản hồi thông tin về bộ phận xây dựng kế hoạch để bổ sung Bộ tiêu chí rủi ro hoặc loại bỏ các tiêu chí không hiệu quả. Ngay từ khâu phân tích hồ sơ cần phân tích chuyên sâu, kỹ nội dung để khoanh vùng rủi ro trọng yếu, từ đó xác định phạm vi thanh, kiểm tra để rút ngắn thời gian, nâng cao hiệu quả các cuộc thanh, kiểm tra. Hoàn thiện và tiếp tục ứng dụng hệ thống báo cáo tổng hợp công tác thanh tra, tiến tới xây dựng phần mềm ứng dụng báo cáo để triển khai trong toàn ngành.

Tăng cường sự phối hợp giữa các chức năng quản lý thuế để đảm bảo sự minh bạch, rõ ràng về nhiệm vụ được giao và trách nhiệm thực hiện, hỗ trợ, kiểm tra, giám sát lẫn nhau, đảm bảo đạt hiệu quả cao nhất, đặc biệt là sự phối hợp giữa chức năng thanh tra và kiểm tra, coi chức năng kiểm tra là nền tảng, là cơ sở, chức năng thanh tra là mũi nhọn. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các chức năng, tận dụng nguồn nhân lực để tham gia công tác thanh tra, kiểm tra. Tăng cường phối hợp với các cơ quan ban ngành như Hải quan, Kho bạc Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước… để nắm bắt thông tin, tình hình hoạt động của các doanh nghiệp, tăng cường vai trò quản lý nhà nước, phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật thuế trên địa bàn. Tiếp tục phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với các cơ quan chức năng, nhất là cơ quan công an về các vấn đề, thông tin liên quan đến việc đấu tranh phòng chống tội phạm đặc biệt là tội phạm về thuế, tập trung thanh tra, xử lý nghiêm các trường hợp mua bán hóa đơn nhằm trốn thuế, chiếm đoạt tiền hoàn thuế của Nhà nước để tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng, công bằng. Tổ chức phối hợp đấu tranh với các hành vi trốn thuế, đưa ra xử lý hình sự đối với các vụ trốn thuế lớn; chủ động phát hiện các vụ trốn thuế để chuyển cơ quan công an xử lý.

- Đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa quản lý thuế

Hiện đại hóa quản lý thuế sẽ tạo cơ hội cho NNT giảm bớt các rủi ro khi xử lý giấy tờ, giúp cơ quan thuế nắm được hệ thống thông tin về NNT một cách nhanh chóng, đầy đủ và chính xác nhất để phân tích và nhận diện rủi ro. Vì vậy cần đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa quản lý thuế. Tạo điều kiện để thực hiện kê khai, nộp thuế điện tử và hoàn thuế điện tử. Cần tranh thủ sự giúp đỡ về tài chính và chia xẻ kinh nghiệm của các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới WB, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế OECD. Cơ quan thuế cần đẩy mạnh việc hợp tác với Cục Công nghệ thông tin nhằm hoạch định chiến lược phát triển ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành thuế, cung cấp nhiều dịch vụ tiện ích về thuế cho NNT.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tài chính (2015), Thông tư số 204/2015/TT-BTC Quy định về áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý thuế.
2. European Commision (2010), “Compliance Risk Management Guide for tax administration”.
3. OECD (2012) “Complian Sup-Group information note managing and improving compliance: Recent developments in Compliance Risk Treatments”.
4. Tổng cục Thuế (2015), Quyết định 2176/QĐ-TCT về việc cơ quan thuế các cấp áp dụng quản lý rủi ro trong công tác lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra thuế tại trụ sở NNT.
5. Tổng cục Thuế, “Báo cáo tổng kết nhiệm vụ công tác thuế các năm 2014, 2015, 2016”.


TS. Nguyễn Thị Thùy Dương - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân - Tạp chí TCDN số 3/2019
 
Bạn đang đọc bài viết Phòng ngừa và xử lý rủi ro trong quản lý thuế tại chuyên mục Thuế & cuộc sống của Tạp chí Tài chính doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác:

email: [email protected], hotline: 086 508 6899

x