Thực trạng giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
TCDN - nghiên cứu này tập trung tìm hiểu khung pháp lý hiện hành với giao dịch của NĐTNN tại Việt Nam, phân tích thực trạng giao dịch của nhóm nhà đầu tư này, từ đó đưa ra các khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thị trường chứng khoán, tăng cường thu hút dòng vốn ngoại trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu gay gắt.
Tóm tắt:
Mặc dù vai trò của nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) được ghi nhận rộng rãi qua các bằng chứng thực nghiệm, thực trạng giao dịch của nhóm nhà đầu tư này trong bối cảnh biến động kinh tế - chính trị toàn cầu vẫn còn nhiều điểm cần được làm rõ. Các yếu tố như đại dịch Covid-19, chính sách tiền tệ của Fed, căng thẳng địa chính trị, hay gần đây nhất là chính sách thuế quan của Mỹ đã có tác động mạnh mẽ đến dòng vốn ngoại, gây ra biến động lớn về chỉ số giá chứng khoán, thanh khoản thị trường cũng như tâm lý nhà đầu tư trong nước. Đồng thời, khung pháp lý hiện hành cũng như các chính sách hỗ trợ NĐTNN cũng cần được đánh giá nhằm nâng cao hiệu quả trong việc duy trì và thu hút dòng vốn ngoại.
Trên cơ sở đó, nghiên cứu này tập trung tìm hiểu khung pháp lý hiện hành với giao dịch của NĐTNN tại Việt Nam, phân tích thực trạng giao dịch của nhóm nhà đầu tư này, từ đó đưa ra các khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thị trường chứng khoán, tăng cường thu hút dòng vốn ngoại trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu gay gắt.
Đánh giá thực trạng về giao dịch của NĐTNN
- Số lượng tài khoản NĐTNN
Số lượng tài khoản của NĐTNN tăng trưởng kép với tốc độ CAGR = 9.1% trong giai đoạn 2019-2024. Tốc độ mở mới tài khoản giao dịch CK (TKCK) của NĐTNN giảm nhẹ sau khi tăng mạnh 20.9% trong hai năm 2017-2018, thời kỳ của làn sóng cổ phần hóa và niêm yết mới trên TTCK Việt Nam. Xét trong giai đoạn nghiên cứu, số lượng TKCK của NĐTNN tăng mạnh nhất trong năm 2021 với trên 4,400 TKCK được mở mới trong năm. Đây cũng là năm bùng nổ của TTCK Việt Nam về cả hiệu suất và GTGD sau khi định giá thị trường đã chiết khấu về mức hấp dẫn và lãi suất giảm về mức thấp.

- Tình hình giao dịch NĐTNN
NĐTNN bán ròng phần lớn thời gian trong giai đoạn 2019-2024, đặc biệt là năm 2021 và 2024 với giá trị bán ròng lần lượt là 62,319 và 92,565 nghìn tỷ VND (tương đương 2.7 và 3.7 tỷ USD.

Mặc dù 2021 là một năm bùng nổ của TTCK (số lượng TKCK +55.5% YoY, VNIndex +35.7% YoY, thanh khoản thị trường bình quân trên 26 nghìn tỷ đồng, gấp 3.6 lần so với 2020), bán ròng vẫn là xu hướng chủ đạo của NĐTNN. Nguyên nhân có thể đến từ tâm lý NĐTNN bị ảnh hưởng tiêu cực khi hoạt động sản xuất bị gián đoạn, chuỗi cung ứng bị đứt gãy trong thời gian Việt Nam thực hiện giãn cách xã hội để phòng chống dịch Covid-19. Bên cạnh đó, dòng tiền rút khỏi các TTCK cận biên và mới nổi, chảy về các thị trường phát triển do kỳ vọng FED và nhiều NHTW lớn trên thế giới có thể tăng lãi suất cũng gây sức ép lên dòng vốn ngoại tại TTCK Việt Nam.
Đối với năm 2024, lãi suất đồng USD neo cao và những khác biệt trong định hướng điều hành CSTT của Việt Nam và Mỹ đã gây áp lực lên tỷ giá, khiến dòng vốn nước ngoài liên tục chảy ra khỏi TTCK Việt Nam. Bên cạnh đó, những kỳ vọng về sự hồi phục trong hoạt động kinh doanh của các DNNY, vận hành hệ thống giao dịch mới, và nâng hạng TTCK chưa được hiện thực hóa cũng làm suy giảm sự hứng thú của NĐTNN đối với TTCK Việt Nam.
Xuyên suốt cả giai đoạn 2019-2024, NĐTNN chỉ mua ròng trong một số quý của năm 2019, 2020 và 2022. Giá trị giao dịch lớn của NĐTNN trong những khoảng thời gian này thường gắn liền với những thương vụ thỏa thuận lớn, điển hình như GD thỏa thuận mua VRE trị giá 1.1 tỷ USD trong Q1 2019, và GD thỏa thuận mua VIC trị giá khoảng 1 tỷ USD trong Q2 2019; hoặc sau khi định giá TTCK đã chiết khấu về mức hấp dẫn như Q2 2020 và Q4 2022. Nói cách khác, mặc dù đánh giá cao triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế và TTCK Việt Nam, các NĐTNN chỉ thực sự mua mạnh khi nhìn thấy các cơ hội tăng giá rõ ràng. Điều này cho thấy kỳ vọng lợi nhuận cao của NĐTNN khi đầu tư nước ngoài vào TTCK Việt Nam, xét trên những nguồn lực cần bỏ ra khi phân bổ danh mục tài sản vào một TTCK cận biên.
Tỷ trọng giao dịch khớp lệnh của NĐTNN trong tổng GTGD có xu hướng tăng theo thời gian. Điều này có thể được giải thích bằng sự tham gia tích cực của dòng tiền đầu tư thụ động của NĐTNN (quỹ ETF) trong giai đoạn Covid-19 (từ 2021). Bên cạnh đó, việc thiếu đi các giao dịch thỏa thuận với quy mô lớn tại nhóm các DNNY quy mô lớn trong giai đoạn này cũng góp phần làm giảm tỷ trọng giao dịch theo hình thức thỏa thuận của NĐTNN trong thời gian gần đây.
Giao dịch của NĐT khối ngoại tập trung ở nhóm CP vốn hóa lớn do những cổ phiếu này thỏa mãn được các điều kiện về quy mô, thanh khoản, khả năng tiếp cận đối với NĐTNN cũng như triển vọng tăng trưởng. Ngoài ra, một số CP trong top trên của nhóm vốn hóa vừa cũng được NĐTNN đánh giá cao và sở hữu với tỷ lệ lớn, VD: DGC, FRT, PNJ…
- Thực trạng giao dịch của NĐTNN theo ngành
Tính trong cả giai đoạn 2019-2024, Bán lẻ, Dầu khí, Hóa chất và Bảo hiểm là những nhóm ngành được NĐTNN mua ròng mạnh nhất.
Đối với nhóm Bán lẻ, nhóm tác giả cho rằng có một số nguyên nhân khiến các cổ phiếu trong ngành hấp dẫn đối với các NĐTNN. Ngành Bán lẻ Việt Nam có tiềm năng tăng trưởng lớn. Quy mô dân số lớn, cơ cấu dân số trẻ và tốc độ đô thị hóa nhanh chóng tạo ra lượng lớn người tiêu dùng tiềm năng với nhu cầu mua sắm ngày càng đa dạng. Bên cạnh đó, sự gia tăng nhanh của tầng lớp trung lưu thúc đẩy nhu cầu và khả năng chi tiêu, đặc biệt với các sản phẩm và dịch vụ bán lẻ chất lượng cao. Xu hướng ưa chuộng các kênh bán lẻ hiện đại như cửa hàng tiện lợi, siêu thị, trung tâm mua sắm và xu hướng điện tử hóa các kênh thương mại cũng mang lại các động lực phát triển mới cho ngành. Nhiều doanh nghiệp bán lẻ niêm yết lớn đã tận dụng những cơ hội này, phát triển các mô hình bán lẻ hiện đại thực phẩm và hàng tiêu dùng thiết yếu (Bách Hóa Xanh của MWG) hay dược phẩm (Long Châu của FRT). Điều này thể hiện sự năng động của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam trong khai thác các mảng sản phẩm mới, khiến các DN này càng trở nên hấp dẫn đối với NĐTNN. Thêm nữa, định giá của các DN này trên thị trường chưa phản ánh đúng tiềm năng tăng trưởng. Trong giai đoạn 2019-2024, có những thời điểm cổ phiếu của các DN Bán lẻ giảm mạnh, định giá ở mức thấp xét trong tương quan với tiềm năng tăng trưởng dài hạn như đợt giảm năm 2020 và cuối năm 2022. Đầu tư CP ngành Bán lẻ trong những giai đoạn thị trường giảm mạnh như trên giúp NĐTNN – những NĐT vốn có nguồn lực hạn chế khi phân bổ đầu tư vào TTCK Việt Nam - có mức biên an toàn lớn hơn.
Đối với nhóm Dầu khí, chúng tôi cho rằng tiềm năng hồi phục của cổ phiếu nhóm ngành này cùng với giá dầu trong giai đoạn 2020-2022 có thể là nguyên nhân chính khiến các CP thu hút dòng tiền khối ngoại. Sau khi giảm mạnh do nhu cầu yếu trong thời kỳ đại dịch Covid-19, giá dầu đã tăng lại cùng với sự hồi phục của hoạt động sản xuất kinh doanh và thương mại, du lịch; được hỗ trợ bởi nguồn cung thắt chặt do OPEC cắt giảm sản lượng (2021-2022), và xung đột Nga-Ukraine. Sự hồi phục của giá dầu giúp củng cố triển vọng ngành, thúc đẩy một chu kỳ đầu tư mới đối với việc thăm dò, khai thác và vận tải dầu khí. Tại Việt Nam, các dự án dầu khí lớn cũng được đẩy nhanh, điển hình như dự án Lô B Ô Môn, các doanh nghiệp cũng tăng cường đầu tư mở rộng công suất, năng lực hoạt động. Với triển vọng khả quan của ngành và các DN, các CP nhóm ngành thu hút hơn 3,280 tỷ đồng trong riêng năm 2022. Tuy nhiên, khi giá dầu bước vào xu hướng giảm trong năm 2024 do nhu cầu toàn cầu chưa hồi phục mạnh mẽ đã khiến cho CP dầu khí trở nên kém hấp dẫn, nhất là khi định giá đã được đẩy lên vùng cao so với lịch sử. Trái ngược với việc mua ròng liên tiếp trong 5 năm trước đó, NĐTNN đã bán ròng khoảng 1,730 tỷ đồng CP dầu khí trong năm 2024.
Trong khi đó, giá trị mua ròng của NĐTNN đối với cổ phiếu nhóm ngành Hóa chất tập trung tại năm 2022 đối với cổ phiếu DGC của CTCP Tập đoàn Hóa chất Đức Giang. Với sản phẩm chính là phốt pho vàng – một hóa chất quan trọng trong ngành công nghiệp pin xe điện và vật liệu bán dẫn, DGC được hưởng lợi từ xu hướng tăng giá của phốt pho vàng trong năm 2021 đến nửa đầu năm 2022. Xu hướng tăng giá này đã giúp cho DGC đạt tốc độ tăng trưởng lợi nhuận lần lượt là 165.2% và 140.2% trong năm 2021 và 2022. Chúng tôi cho rằng đây là một trong số các nguyên nhân khiến NĐTNN quyết định giải ngân vào DGC, trong quá trình tìm kiếm các cơ hội đầu tư vào các DN trụ cột của nền kinh tế mới.
Đối với nhóm Bảo hiểm, NĐTNN mua ròng mạnh tại một số CP bảo hiểm phi nhân thọ mới IPO và đăng ký giao dịch trên thị trường tập trung trong giai đoạn 2019-2020, có thể kể đến như BHI và AIC. Điều này diễn ra trong bối cảnh tỷ lệ sở hữu của NĐTNN tại các DN bảo hiểm lớn như BVH, PVI, BIC… thường xuyên chạm ngưỡng tối đa, cho thấy sức hấp dẫn của ngành bảo hiểm tại Việt Nam khi các cơ hội đầu tư vào ngành được NĐTNN “săn đón”. Nhóm tác giả cho rằng quy mô dân số lớn, cơ cấu dân số trẻ và tầng lớp trung lưu tăng nhanh chóng cùng với tỷ lệ thâm nhập của bảo hiểm thấp tạo giúp cho dung lượng thị trường bảo hiểm tại Việt Nam còn rất lớn, đặc biệt là đối với các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm sức khỏe, tai nạn…Thêm nữa, các ngành sản xuất chế biến chế tạo, du lịch phát triển cũng mở ra nhiều cơ hội cho các DN bảo hiểm tài sản, bảo hiểm chuyên ngành như PVI và AIC.
Ngược lại, NĐTNN tập trung bán ròng ở các nhóm ngành vốn hóa lớn trên thị trường như Ngân hàng, Thực phẩm và đồ uống, Tài nguyên cơ bản và Bất động sản.
Trái ngược với xu hướng mua ròng ghi nhận trong giai đoạn 2019-2024, nhóm Ngân hàng trở thành tâm điểm bán ròng kể từ sau năm 2019. Trong giai đoạn nghiên cứu, nhóm Ngân hàng chỉ được mua ròng duy nhất trong năm 2022, khi VNIndex giảm mạnh về dưới 900 điểm với định giá P/E rơi về 9.5 lần. Chúng tôi cho rằng lực mua của NĐTNN trong giai đoạn này chủ yếu được dẫn dắt bởi lực cầu bắt đáy khi giá nhiều CP ngân hàng giảm sâu về mức định giá hấp dẫn. Tuy nhiên, trong hai năm tiếp theo, nhóm Ngân hàng bị NĐTNN bán ròng mạnh, lần lượt 12.8 và 18.5 nghìn tỷ đồng (0.54 và 0.74 tỷ USD). Nguyên nhân có thể đến từ xu hướng bán ròng chung của NĐTNN tại các thị trường cận biên và thực trạng kém khả quan của ngành ngân hàng tín dụng tăng chậm, biên lãi thuần và chất lượng tài sản suy giảm.
Đối với nhóm Thực phẩm và đồ uống, lực bán ròng cũng tập trung tại một số CP vốn hóa lớn như MSN, VNM, và SAB với những câu chuyện riêng. Đối với MSN, cổ phiếu bị bán ròng liên tiếp kể từ 2020 đến nay. Chúng tôi cho rằng nguyên nhân có thể đến từ việc hoạt động kinh doanh biến động lớn, điển hình như 2020 LNST giảm 78% so với cùng kỳ nhưng đến năm 2021 lại tăng gấp 7.2 lần, sau đó lại giảm hơn một nửa trong năm 2022. Bên cạnh đó, việc các cổ đông ngoại taị MSN như SK thay đổi chiến lược kinh doanh, tái cấu trúc các khoản đầu tư toàn cầu cũng khiến cho CP này bị bán ròng mạnh trong năm 2024. Đối với VNM, nhóm tác giả nhận thấy dòng tiền của NĐTNN phù hợp với diễn biến thị trường chung (bán ròng liên tiếp trong giai đoạn 2019-2024, ngoại trừ năm 2022) do vị thế cổ phiếu thuộc nhóm vốn hóa lớn trên thị trường và hoạt động kinh doanh tương đối ổn định. Còn đối với SAB, chúng tôi cho rằng việc sản lượng tiêu thụ bị ảnh hưởng kể từ khi Nghị định 100/2019/NĐ-CP hiệu lực cùng với tác động tiêu cực của dịch Covid-19 là những nguyên nhân chính làm suy giảm sự hấp dẫn của cổ phiếu đầu ngành bia và nước giải khát như SAB.
Đối với nhóm Tài nguyên cơ bản, quy mô bán ròng mạnh nhất trong năm 2021, sau khi ngành đạt đỉnh của chu kỳ tăng trưởng. NĐTNN tiếp tục bán ròng các CP ngành Tài nguyên cơ bản từ sau năm 2021 cho đến các năm tiếp theo, bất chấp từng thời điểm có hồi phục ngắn hạn về giá cổ phiếu. Điều này phản ánh sự thay đổi trong kỳ vọng lợi nhuận của khối ngoại đối với ngành từ sang kém khả quan trước xu hướng giảm của giá thép và nhu cầu nội địa yếu khi thị trường bất động sản trầm lắng. Sản lượng tiêu thụ tăng chậm và biên lợi nhuận giảm đã bào mòn lợi nhuận của các DN trong ngành, thậm chí một số DN còn ghi nhận lỗ.
Đối với nhóm Bất động sản, các CP liên tục bị bán ròng (ngoại trừ năm 2022) sau khi những sai phạm trong phát hành TPDN của một số chủ đầu tư lớn được chỉ ra và thị trường đi vào giai đoạn giao dịch ảm đạm với sự sụt giảm cả về số lượng mở bán và giao dịch. Điều này thể hiện hành động giảm thiểu rủi ro của các NĐTNN diễn ra quyết liệt khi niềm tin đối với các DN suy giảm và ngành đi vào giai đoạn suy thoái.
Trong khi đó, các nhóm ngành có quy mô vốn hóa nhỏ như Viễn thông, Truyền thông, Ô tô và phụ tùng… ít nhận được quan tâm của NĐTNN. Điều này thể hiện chiến lược phân bổ tài sản tối ưu hóa chi phí – lợi ích của các quỹ đầu tư nước ngoài.

Kết luận và khuyến nghị
Nhìn chung, dựa trên phân tích thực trạng thị trường thời gian qua, có thể thấy giao dịch của NĐTNN trên thị trường chứng khoán Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất định, cụ thể như sau:
Thứ nhất, số lượng tài khoản NĐTNN tăng trưởng ổn định. Số lượng tài khoản NĐTNN tăng trưởng kép 9.1%/năm, phản ánh sự quan tâm lâu dài và liên tục của nhà đầu tư ngoại với TTCK Việt Nam, dù có biến động vĩ mô và dịch bệnh.
Thứ hai, tỷ trọng giao dịch khớp lệnh gia tăng. Sự gia tăng tỷ trọng giao dịch khớp lệnh cho thấy dòng vốn đầu tư thụ động (ETF) và tổ chức nước ngoài ngày càng tham gia trực tiếp vào thị trường hơn thay vì chỉ thông qua các giao dịch thỏa thuận lớn.
Thứ ba, giao dịch của NĐTNN tập trung vào các ngành có tiềm năng tăng trưởng. Các NĐTNN thể hiện sự quan tâm rõ rệt đến các ngành như Bán lẻ, Dầu khí, Hóa chất, và Bảo hiểm – những lĩnh vực có tiềm năng dài hạn và lợi thế cạnh tranh rõ nét.
Bên cạnh những kết quả trên, giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài cũng thể hiện những hạn chế nhất định:
- Xu hướng bán ròng: Mặc dù số lượng tài khoản tăng, NĐTNN vẫn liên tục bán ròng, đặc biệt trong các năm bùng nổ như 2021 và 2024. Điều này đặt ra câu hỏi về chất lượng dòng tiền nước ngoài và sự thiếu ổn định trong niềm tin của NĐTNN đối với thị trường.
- Ảnh hưởng lớn từ yếu tố bên ngoài: Dòng vốn NĐTNN dễ bị tác động bởi biến động toàn cầu như chính sách lãi suất của Fed, dịch Covid-19, hoặc căng thẳng địa chính trị, và chưa đủ sức hấp dẫn nội tại để giữ chân dòng vốn.
- Phụ thuộc vào các thương vụ lớn: Các đợt mua ròng chủ yếu đến từ giao dịch thỏa thuận quy mô lớn, không phản ánh dòng tiền đầu tư bền vững hay đầu tư dài hạn.
- Thiếu hấp dẫn ở nhiều ngành tiềm năng: Một số nhóm ngành nhỏ và có tiềm năng dài hạn (như Truyền thông, Công nghệ…) chưa được quan tâm do quy mô vốn hóa nhỏ, thanh khoản thấp, và thiếu sản phẩm đầu tư hấp dẫn.
Khuyến nghị:
Trên cơ sở thực trạng và các hạn chế trong hoạt động giao dịch của NĐTNN, một số khuyến nghị được đề xuất như sau:
Thứ nhất, quá trình nâng hạng TTCK cần được đẩy nhanh. Cải thiện minh bạch, quy chuẩn thông tin, bảo vệ nhà đầu tư và triển khai các chuẩn mực quốc tế để nâng hạng TTCK, giúp thu hút dòng vốn dài hạn từ các quỹ đầu tư tổ chức.
Thứ hai, chính sách vĩ mô và tỷ giá cần được tăng cường ổn định. Giảm thiểu rủi ro tỷ giá và chênh lệch lãi suất để hạn chế áp lực rút vốn của khối ngoại.
Thứ ba, hệ thống giao dịch và sản phẩm đầu tư cần được nâng cấp và hoàn thiện. Nghiên cứu gia tăng sản phẩm phái sinh để nâng tính thanh khoản và đa dạng hóa kênh đầu tư.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp niêm yết cần minh bạch hóa tài chính, đẩy mạnh truyền thông với nhà đầu tư nước ngoài để tăng tính nhận diện và nâng sức hấp dẫn. Doanh nghiệp trong các ngành như Công nghệ, Năng lượng tái tạo, … nên chú trọng mở rộng quy mô và tăng chất lượng quản trị để hút vốn ngoại.
Tài liệu tham khảo
Batten, J. A., & Vo, X. V. (2015). Foreign ownership in emerging stock markets. Journal of Multinational Financial Management, 32, 15-24.
Bộ Tài chính, Thông tư số 120/2020/TT-BTC quy định giao dịch cổ phiếu niêm yết, đăng ký giao dịch và chứng chỉ quỹ, trái phiếu doanh nghiệp, chứng quyền có bảo đảm niêm yết trên hệ thống giao dịch chứng khoán; Thông tư số 68/2024/TT-BTC sửa đổi, bổ sung một số điều của các thông tư quy định về giao dịch chứng khoán trên hệ thống giao dịch chứng khoán; bù trừ và thanh toán giao dịch chứng khoán; hoạt động của công ty chứng khoán và công bố thông tin trên thị trường chứng khoán.
Chakraborty, S., & Kakani, R. K. (2016). Institutional investment, equity volume and volatility spillover: Causalities and asymmetries. Journal of International Financial Markets, Institutions and Money, 44, 1-20.
Chính phủ, Nghị định số 100/2019/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt; Nghị định số 155/2020/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán 2019; Nghị định 158/2020/NĐ-CP về chứng khoán phái sinh và thị trường chứng khoán phái sinh; Nghị định số 31/2021/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư.
Nguyễn Ngọc Trâm, Vũ Thị Thúy Vân, Nguyễn Thị Kiều Hạnh
Tạp chí in số tháng 10/2025
email: [email protected], hotline: 086 508 6899
Tag:











