Bài 3: Việt Nam nên áp dụng cơ chế thuế tối thiểu nội địa đạt tiêu chuẩn
TCDN - Bà Nguyễn Thị Cúc, Chủ tịch Hội Tư vấn Thuế Việt Nam cho rằng, Việt Nam có thể cân nhắc giải pháp áp dụng cơ chế thuế tối thiểu nội địa đạt tiêu chuẩn (Qualified Domestic Minimum Top-up Tax - QDMTT) để giành quyền thu phần thuế bổ sung trước các quốc gia khác như một số nước trong khu vực đang áp dụng.
Bài 1: Thuế tối thiểu toàn cầu và ứng phó của Việt Nam
Bài 2: Các nước trên thế giới ứng phó với thuế suất thuế tối thiểu toàn cầu
Thuế tối thiểu toàn cầu giúp tăng nguồn thu từ thuế
Chuyên gia kinh tế trưởng, Ngân hàng Phát triển Việt Nam BIDV TS Cấn Văn Lực cho rằng, khi có hiệu lực, thuế tối thiểu toàn cầu sẽ tác động cả tích cực và tiêu cực đối với kinh tế Việt Nam. Cụ thể, thuế tối thiểu toàn cầu góp phần tăng nguồn thu từ thuế, hạn chế các hiện tượng trốn, tránh thuế, chuyển giá… của các tập đoàn đa quốc gia tại Việt Nam.
OECD ước tính, hơn 220 tỷ USD lợi nhuận dự kiến sẽ được phân bổ lại cho các quốc gia mỗi năm và Việt Nam có thể hưởng lợi 1 phần từ sự phân bổ này. Tuy nhiên, quy mô lợi nhuận phân bổ có thể thấp hơn ước tính hoặc không đáng kể vì để thực hiện được cần có một hệ thống quản lý thuế hiệu quả và nỗ lực, hiệu quả phối hợp giữa các quốc gia.
Cả hiện có nước 36.5000 dự án đầu tư nước ngoài (FDI) trong đó có hơn 1.000 doanh nghiệp lớn và hàng nghìn doanh nghiệp vệ tinh chịu tác động bởi thuế tối thiểu toàn cầu.
Theo tính toán của Tổng cục Thuế, nếu thực hiện thuế suất thuế tối thiểu toàn cầu 15%, ngân sách nhà nước sẽ có thêm 12.000 - 30.000 tỷ đồng để hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp FDI.
Cũng theo TS Cấn Văn Lực, sức cạnh tranh trong thu hút FDI của Việt Nam có thể bị ảnh hưởng trong ngắn hạn khi chính sách ưu đãi thuế thay đổi. Châu Á hiện nay là khu vực có mức thuế suất TNDN thấp nhất so với các khu vực khác trên thế giới và dự kiến có thể chịu tác động nhiều nhất khi các doanh nghiệp đa quốc gia phân bổ lại hoạt động, đầu tư của mình nhằm tối ưu về thuế. Tuy nhiên, các chính sách ưu đãi thuế hiện tại của Việt Nam vẫn có thể đem lại lợi ích cho các công ty không nằm trong phạm vi điều chỉnh như các công ty trong nước hoặc các công ty con của các Tập đoàn đa quốc gia có doanh thu dưới ngưỡng 750 triệu EUR.
Việc áp dụng các quy tắc GloBE có thể làm phát sinh các chi phí cải cách hệ thống quản lý thuế, thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư và tiến độ triển khai phụ thuộc vào năng lực quản lý của các bộ, ngành, địa phương liên quan. Điều này đòi hỏi đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và cơ chế thu hút đầu tư của Việt Nam để phù hợp hơn với quy tắc GloBE trong thời gian tới.
Theo ông Lực, Bộ Tài chính/Tổ công tác đặc biệt cần nhanh chóng nghiên cứu, khảo sát, đánh giá tác động đầy đủ của việc áp dụng chính sách thuế tối thiểu toàn cầu này để chủ động đề xuất phương án, giải pháp phù hợp.
Trong trường hợp chưa thể hoàn thành việc điều chỉnh các văn bản quy định pháp luật trước năm 2024, cần nghiên cứu kỹ các quy tắc và hướng dẫn của OECD, xem xét xây dựng và ban hành quy định chính sách thuế tổi thiểu nội địa đạt tiêu chuẩn (QDMT) như là một cơ chế phản ứng nhanh để bảo vệ quyền đánh thuế thay vì nhường quyền đánh thuế cho các quốc gia khác. Quy định về QMDT có thể được xem như một cơ chế thuế song song với Thuế tối thiểu toàn cầu như trường hợp của Malaysia.
Bộ Tài chính cần có đánh giá ảnh hưởng của các quy tắc GloBE do mức độ ảnh hưởng lên các chính sách ưu đãi là khác nhau đối với từng quốc gia, tập đoàn đa quốc gia, nhà đầu tư và chính sách ưu đãi cụ thể, việc đánh giá chi tiết và cụ thể đối với từng quốc gia là rất cần thiết để xây dựng lộ trình cải cách phù hợp. Bên cạnh đó, cùng cần rà soát những đối tượng chịu ảnh hưởng (cả tiêu cực và tích cực) để có những điều chỉnh phù hợp.
Tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho doanh nghiệp
Theo bà Nguyễn Thị Cúc - Chủ tịch Hội Tư vấn Thuế Việt Nam, từ kinh nghiệm của các nước trong khu vực, Việt Nam có thể nghiên cứu học tập để đưa ra các giải pháp phù hợp. Trong đó có thể cân nhắc giải pháp áp dụng cơ chế thuế tối thiểu nội địa đạt tiêu chuẩn để giành quyền thu phần thuế bổ sung trước các quốc gia khác như một số nước trong khu vực đang áp dụng.
Ngoài các vấn đề liên quan đến thuế, cần tạo môi trường đầu tư thuận lợi hơn cho doanh nghiệp để bù đắp lại một phần cho doanh nghiệp thông qua các giải pháp: tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Hỗ trợ phát triển công nghiệp phụ trợ phục vụ cho sản phẩm đầu ra của doanh nghiệp. Có kế hoạch và đầu tư phát triển sớm vùng nguyên liệu đủ cả về số lượng, chất lượng, tăng tỷ trọng sử dụng nguyên liệu nội địa nhưng vẫn đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư. Hỗ trợ nâng cao năng suất và khả năng sáng tạo của doanh nghiệp bằng các biện pháp phù hợp, không trái thông lệ quốc tế.
Bên cạnh đó, cần chú trọng nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh của Việt Nam. Qua đó giảm thiểu, tiến tới loại bỏ hoàn toàn các chi phí ngầm mà các doanh nghiệp đang gành chịu. Cùng với tăng cường cải cách thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng dịch vụ công: đảm bảo thông thoáng, rõ ràng minh bach, thống nhất, dễ hiểu, dễ làm… giúp doanh nghiệp giảm thiểu chi phí quản lý, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Đồng tình với quan điểm của bà Nguyễn Thị Cúc, ông Phan Đức Hiếu, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho rằng cả về trước mắt và lâu dài và quan trọng nhất thì phải thu hút đầu tư bằng môi trường kinh doanh thuận lợi; chi phí gánh nặng về thủ tục hành chính, tuân thủ pháp luật được giảm bớt, minh bạch hơn, nhanh hơn và ít rủi ro - môi trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn. Như vậy, Chính phủ trước hết cần đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, coi đây là biện pháp thu hút đầu tư quan trọng nhất, hiệu quả nhất để ứng phó với thách thức từ chính sách thuế này.
Ngoài ra, theo ông Hiếu, cần lưu ý rằng, những biện pháp ưu đãi vẫn có thể tác dụng đối với nhiều nhà đầu tư, đặc biệt là vừa, nhỏ. Trường hợp, cần thiết tìm kiếm chính sách ưu đãi thuế thì cân nhắc các chính sách ưu đãi về khấu trừ chi phí - có thể đặt được mục tiêu kép - vừa hạn chế được tác động của chính sách thuế suất tối thiểu toàn cầu - vừa giúp thu hút đầu tư có chọn lọc.
Các giải pháp cần chú ý đến cả giải pháp thu hút mới đầu tư nước ngoài, mở rộng đầu tư của các nhà đầu tư đã và đang đầu tư và cần tính đến giải pháp cho các nhà đầu tư đã đầu tư, đang hoạt động đang trong thời kỳ hưởng ưu đãi. Ngoài giải pháp trước mắt, cần phải tính đến rà soát toàn bộ hệ thống thuế, đồng thời tính đến chính sách thuế dài hạn hơn trong mục tiêu chung chống xói mòn cơ sở thuế và chống chuyển lợi nhuận.
“Việt Nam cần nhanh chóng đánh giá để xác định mức độ bị tác động - bao gồm cả cơ hội và tác động tiêu cực; cần nhanh chóng rà soát toàn bộ quy định hiện hành về chính sách ưu đãi và từ đó cần xác định chính xác phạm vi và mức độ bị tác động theo ngành, lĩnh vực, đối tượng, tác động tích cực - tiêu cực, cơ hội, thách thức. Chỉ khi chúng ta xác định đầy đủ bức tranh tác động thì mới có thể có giải pháp phù hợp. Thách thức lớn nhất lúc này là áp lực thời gian.
Thực tiễn cho thấy để tận dụng cơ hội hay hóa giải thách thức có thể cần hành động chính sách, sửa đổi nội luật cần thời gian để làm việc này. Chúng ta chỉ có khoảng 10 tháng quý giá để hành động, tận dụng cơ hội, giữ quyền đánh thuế, tăng thu ngân sách nhà nước vừa đảm bảo chủ trương thu hút đầu tư. Và trong việc này, Chính phủ không thể làm một mình mà phải có sự đối thoại, hợp tác, tham vấn với cộng đồng doanh nghiệp, thậm chí là cả hợp tác quốc tế giữa các quốc gia”, ông Hiếu nhấn mạnh.
Bài 4: Cân nhắc chính sách ưu đãi mới cho nhà đầu tư nước ngoài
email: [email protected], hotline: 086 508 6899