Cho vay bất hợp pháp tại Anh: Kinh nghiệm ứng xử và hàm ý khuyến nghị
TCDN - Cho vay bất hợp pháp là một hiện tượng tiêu cực của xã hội, trong đó người cho vay không có GPKD cấp tín dụng; đối tượng của người cho vay là những người không có khả năng tiếp cận với những khoản vay đúng chuẩn và hành vi của người cho vay thường gắn liền với những yếu tố tiêu cực của xã hội.
Tóm tắt
Cho vay bất hợp pháp (còn gọi là tín dụng đen) là tình trạng cho vay dưới chuẩn nhiều ít đều xảy ra ở các nước mà hậu quả của nó thường là khá trầm trọng đối với người vay nợ, làm phát sinh nhiều hình thức tội phạm gây ảnh hưởng lớn đến an sinh xã hội. Bài viết này tập trung phân tích kinh nghiệm giải quyết tình trạng cho vay bất hợp pháp tại Vương quốc Anh trong giai đoạn bùng nổ tín dụng dưới chuẩn. Một số hàm ý, khuyến nghị trong bài viết (nhận diện rõ tín dụng đen; tạo nguồn cung tín dụng hợp pháp; tư vấn giáo dục nhận thức về tín dụng đen; ban hành pháp luật quản lý, ngăn chặn tín dụng đen; thực hiện giám sát cộng đồng; chính sách lãi suất hợp lý; chính sách hỗ trợ công ăn việc làm cho người khốn khó…) có thể là những tham khảo hữu ích trong quá trình hoạch định chiến lược hạn chế tình trạng cho vay bất hợp pháp; góp phần giảm thiểu những hệ lụy tiêu cực đối với những người vay nợ tín dụng dưới chuẩn tại Việt Nam.
1. Khái niệm cho vay bất hợp pháp
Cho vay bất hợp pháp (còn gọi là tín dụng đen) là tình trạng cho vay dưới chuẩn nhiều ít đều xảy ra ở các nước. Trong một báo cáo nghiên cứu về cho vay bất hợp pháp tại Anh, Anna Ellison, Sharon Collard và Rob Forster (2006) đã chỉ ra, cho vay bất hợp pháp là việc tổ chức, cá nhân thực hiện việc cho vay tiền khi tổ chức, cá nhân đó không có giấy phép kinh doanh cấp tín dụng tiêu dùng và các loại hình tín dụng khác. Đối tượng của người cho vay bất hợp pháp thường nhắm vào là những người thiếu hiểu biết; ốm đau, nghèo đói cần một khoản tiền để trang trải chi phí chữa bệnh; hoặc người không có khả năng tiếp cận đến tín dụng hợp pháp, người có lịch sử tín dụng bất lợi, người mắc nợ quá mức, không có khả năng thanh toán; thậm chí người cho vay phục vụ ngay cả những đối tượng vay tiền có khả năng rủi ro nhất như bị phá sản… Ferguson (2000) trong nghiên cứu “Predatory Lending: Practices, Remedies and Lack of adequate Protection for Ohio Consumers” cho rằng, cho vay bất hợp pháp là hành vi người cho vay cung cấp các khoản vay tín dụng dưới chuẩn, phi đạo đức, trái pháp luật cho những người vay không có đủ khả năng tiếp cận tín dụng chính thức nhằm loại bỏ quyền lợi của người vay và kèm theo đó là những thiệt hại lớn, kéo dài. Như vậy, khái niệm “cho vay bất hợp pháp” có thể tổng hợp, nhìn nhận như sau: Cho vay bất hợp pháp là một hiện tượng tiêu cực của xã hội, trong đó người cho vay không có giấy phép kinh doanh cấp tín dụng; đối tượng của người cho vay là những người không có khả năng tiếp cận với những khoản vay đúng chuẩn và hành vi của người cho vay thường gắn liền với những yếu tố tiêu cực của xã hội như thiếu đạo đức, lừa đảo, trái pháp luật… nhằm mục đích chiếm đoạt, kiếm lời bất hợp pháp.
2. Kinh nghiệm của Vương quốc Anh
2.1. Khái lược quy mô cho vay bất hợp pháp tại Vương quốc Anh
Thị trường tín dụng Vương quốc Anh là thị trường lớn nhất, tăng trưởng nhanh nhất ở châu Âu, có loại hình tín dụng đa dạng và phổ biến trong giai đoạn 2006. Bên cạnh những loại hình tín dụng phù hợp theo chuẩn mực quốc tế, nước Anh cũng phải đối diện với những khoảng trống thị trường mà tại đó người cho vay cung cấp các loại hình cho vay bất hợp pháp. Trong giai đoạn này, ước tính có khoảng 165.000 hộ gia đình đang có những khoản vay từ người cho vay tiền bất hợp pháp, chiếm 0,44% dân số Anh trưởng thành, 3% dân số có thu nhập hộ gia đình thấp và 6% hộ gia đình nghèo nhất khu vực. Phần lớn các khu vực có rủi ro cao nhất từ cho vay bất hợp pháp dường như nằm ở Scotland, Bắc và Tây Midlands, phía Nam London (Newham, Tower Hamlets, Portsmouth và Plymouth). Sự gia tăng tỷ lệ tín dụng bất hợp pháp là do người đi vay không thể mượn ở bất cứ nơi nào khác; do sự thuận tiện, dễ tiếp cận của người vay đối với người cho vay; những lời đề nghị từ hàng xóm hoặc do sự chủ động tiếp cận của những người cho vay; mối quan hệ tốt đối với người đại lý, người cho vay.
Khung pháp lý kiểm soát việc cung cấp hầu hết tín dụng tiêu dùng dưới dạng cho vay hoặc hàng hóa và dịch vụ mua bằng tín dụng của Vương quốc Anh được quy định trong Đạo luật Tín dụng tiêu dùng 1974. Đạo luật yêu cầu người cho vay phải được Văn phòng Hội chợ cấp phép giao dịch và giao dịch mà không có giấy phép tín dụng tiêu dùng là một tội hình sự, có thể bị phạt tiền và/hoặc phạt tù. Đạo luật cũng đặt ra các yêu cầu đối với hình thức và nội dung của các thỏa thuận tín dụng tiêu dùng cá nhân, đặc biệt là thông tin mà người tiêu dùng sẽ nhận được về chi phí và phí. Sau khi xem xét rộng rãi về Luật Tín dụng tiêu dùng, Đạo luật Tín dụng tiêu dùng mới được ban hành năm 2006, nhằm mục đích cung cấp sự bảo vệ người tiêu dùng lớn hơn.
2.2. Một số giải pháp ngăn chặn tình trạng cho vay bất hợp pháp tại Anh
Nhận thức được tác động xấu của người cho vay bất hợp pháp tới cộng đồng, một số biện pháp được chính quyền Vương quốc Anh thực hiện như sau:
(i) Tạo nguồn quỹ hỗ trợ khẩn cấp, cung cấp tín dụng hợp pháp phù hợp cho đối tượng khó khăn khó tiếp cận tín dụng (các quỹ hỗ trợ, cho vay sử dụng quỹ xã hội chi phí thấp không dành cho vay lợi nhuận và các khoản vay và trợ cấp Chính phủ không lãi suất, tiếp cận tín dụng Công đoàn, các ngân hàng hoạt động tại địa phương). Cụ thể như Anh đã ban hành Đạo luật về Cho vay tiền bất hợp pháp POCA (2002) với nguyên tắc tội phạm phải chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội và tội phạm không nên được hưởng lợi từ các hoạt động tội phạm.
Theo đó, một người cho vay bất hợp pháp phạm tội khi bị kết án có thể bị Tòa án ra lệnh trả lại một khoản tiền tương đương với số tiền mà người phạm tội bị xét xử đã có được từ hoạt động tội phạm. Luật POCA sẽ tính toán lợi ích kinh tế từ các nhóm cho vay bất hợp pháp để thu hồi, bổ sung vào quỹ tiết kiệm hỗ trợ lại cho nạn nhân. Về bản chất, tiết kiệm cho nạn nhân là một quỹ lợi ích hướng tới những gì nạn nhân sẽ không phải trả trong tương lai khi mà họ trở nên khốn cùng bởi những người cho vay bất hợp pháp.
Theo báo cáo khảo sát của nhóm nghiên cứu, từ khi thành lập đến năm tài chính 2010, tổng giá trị POCA thu được và tạo quỹ là khoảng 36 triệu bảng. Đó là chìa khóa để giải quyết nạn tín dụng đen và được coi là nguồn cung cấp tín dụng hợp pháp hiệu quả, đặc biệt là cho vay xã hội và tín dụng giá cả phải chăng.
Mặt khác, một số tổ chức tín dụng hợp pháp cũng được chỉ định để tham gia hỗ trợ họ. Một số nạn nhân và nhân chứng tại Anh đã được giới thiệu thành công cho một số tổ chức tín dụng và họ được hưởng lợi từ quyền truy cập vào các cơ sở tài khoản của liên minh tín dụng với lãi suất thấp. Tuy nhiên, đây là những trường hợp tương đối hiếm vì việc thiết lập mối quan hệ và thực hiện chuyển đổi thành thành viên liên minh tín dụng đòi hỏi phải có mức độ nắm tay và hỗ trợ cao.
(ii) Thành lập các trung tâm tư vấn cộng đồng, tư vấn nợ, giáo dục tài chính để hỗ trợ người vay. Chính quyền Anh đã thành công trong việc phát triển sự hiểu biết về những điều cần thiết cho việc phòng, tránh đối tượng cho vay bất hợp pháp. Giáo dục tài chính dường như đã tăng cường nhận thức về những rủi ro của việc sử dụng việc vay tiền bất hợp pháp.
Những người tham gia tư vấn nợ này chủ yếu là nhân chứng, các Công đoàn tín dụng, các nhóm dự án… Trong nhiều trường hợp vai trò tư vấn nợ của họ được đánh giá cao, đặc biệt là can thiệp khủng hoảng để ổn định tài chính của các nạn nhân, ngăn chặn việc chiếm đoạt và thủ tục phá sản của các con nợ, họ đã nắm tay và hướng dẫn con nợ các quy trình khác nhau. Các nhóm dự án, các nhân chứng và các đối tác tư vấn nợ của họ rõ ràng đã nỗ lực rất nhiều để ổn định tài chính của các nạn nhân, gỡ bỏ gánh nặng, giúp các con nợ không phải tiếp tục lo lắng, làm mồi cho những đối tượng cho vay nặng lãi. Do đó, việc ngăn chặn dưới hình thức giáo dục về hậu quả có thể xảy ra khi dính líu đến một con cá mập cho vay dường như là chìa khóa. Về mặt này, có vẻ như họ đã có hiệu quả trong việc truyền đạt các rủi ro khi vay từ một người cho vay bất hợp pháp. Một phần ba những người trong khu vực so sánh và hơn bốn phần mười những người trong khu vực can thiệp đồng ý với một tuyên bố rằng, mọi người hiện nhận thức rõ hơn về sự nguy hiểm của việc sử dụng cá mập cho vay.
Thống kê khảo sát tại Anh cho thấy, có 27% những người trong cộng đồng của họ biết về các nhóm cho vay bất hợp pháp, tăng lên 34% trong số các nạn nhân. Không khí của sự sợ hãi vẫn còn, tuy nhiên, mặc dù nó dường như đang giảm. Bảy trong mười người khảo sát biết về cho vay bất hợp pháp trong cộng đồng của họ cảm thấy sự hiện diện của các nhóm tuyên truyền về hậu quả của cho vay bất hợp pháp đã tạo ra sự khác biệt. Như vậy là đã có sự gia tăng đáng kể về nhận thức và hiểu biết về cho vay tiền bất hợp pháp giữa một loạt các đối tượng, các bên liên quan và các cơ quan đối tác.
(iii) Thực hiện tốt vai trò trấn át tội phạm cho vay trái pháp luật của lực lượng an ninh, cảnh sát. Ví dụ điển hình như việc chính quyền Anh đã thực hiện một khởi đầu vững chắc trong việc thực thi luật pháp, họ gửi một thông điệp rõ ràng đến những người cho vay và cộng đồng rằng những người cho vay bất hợp pháp hiện đang nằm trên tầm kiểm soát, theo dõi của chính quyền và những người cho vay không còn có thể hoạt động phi pháp mà không bị trừng phạt.
Đồng thời chính quyền cũng tăng cường truy tố những vụ án cho vay bất hợp pháp, trong đó có cả những vụ án rất nghiêm trọng mà các đối tượng cho vay bất hợp pháp có thể phải chịu những hình phạt giam giữ. Kể từ khi thành lập dự án quốc gia của Anh vào cuối năm 2007 về cho vay bất hợp pháp, thống kê cho thấy tổng cộng có 1.434 các liên hệ chỉ ra những biểu hiện, hiện tượng tiêu cực từ việc cho vay bất hợp pháp; trong đó đã có khoảng 880 cuộc điều tra được bắt đầu, liên quan đến khoảng 870 người cho vay và khoảng 280 vụ bắt giữ. Khoảng 163 thủ tục tố tụng đã được đưa ra, trong đó 96 vụ đã bị truy tố với 58 vụ trong số này cuối cùng được xử lý. Trong số những trường hợp được đưa ra để truy tố, 33 trường hợp đã dẫn đến các bản án không giam giữ, với 28 kết quả là một bản án giam giữ, cùng với tổng cộng mức án khoảng 56 năm. Dựa trên nền tảng này, các bằng chứng khảo sát cho thấy rằng, trong các khu vực can thiệp của thành phố, nơi các đội đã hoạt động và bắt giữ, nhận thức rằng, tín dụng đen đã giảm cao hơn nhiều so với các khu vực so sánh.
(iv) Thiết lập kênh thông tin giám sát tội phạm của cộng đồng dân cư, cung cấp số đường dây điện thoại nóng để hỗ trợ những trường hợp khẩn cấp bị người cho vay đàn áp, đe dọa. Cụ thể như chính quyền Anh đã thành công trong việc xây dựng nhận thức, sáng kiến và đường dây trợ giúp đặc biệt là đối với các các nạn nhân của các đối tượng cho vay bất hợp pháp.
Đồng thời, họ cũng thực hiện truyền thông đưa tin về hoạt động của dự án tuyên truyền về bắt giữ những người cho vay bất hợp pháp và điều đó đã tạo ra một mức độ nhận thức đáng kể về sáng kiến và sự tin tưởng của nạn nhân cho vay về sự sẵn sàng hành động của các cơ quan chức năng trong việc chính quyền can thiệp đối với những hành vi cho vay bất hợp pháp.
Bằng chứng về nhận thức lớn nhất trong số những mục tiêu chính của sáng kiến là khoảng 17% những người ở khu vực thiếu thốn đã biết về dự án, tăng lên hơn một phần tư (27%) những người nhận thức được những kẻ cho vay nặng lãi hoạt động trong cộng đồng của chính họ và một phần ba nạn nhân (34%). Hai phần ba những người trong khu vực có dự án can thiệp tin rằng, cho vay bất hợp pháp đang giảm trong cộng đồng của họ do chính quyền hành động so với một nửa trong khu vực so sánh. Việc quảng bá đường dây trợ giúp cá mập cho vay và truyền thông về các hoạt động của dự án và bắt giữ những người cho vay bất hợp pháp là sáng kiến hữu ích, thể hiện rõ một chính quyền sẵn sàng hành động hỗ trợ, giúp đỡ họ.
3. Một số hàm ý khuyến nghị tại Việt Nam
Thứ nhất, cần xác định tín dụng đen là vấn đề xấu gây ảnh hưởng lớn đến trật tự, an sinh xã hội, đời sống của người dân nên cần được nhận diện rõ ràng để phòng trách. Do vậy, cần tuyên truyền sâu rộng tới nhân dân về hình thức, cách thức, thủ đoạn của các đối tượng cho vay; cụ thể như những hình thức tín dụng đen lành tính đến những hình thức vay bạo lực nguy hiểm và những hoạt động tội phạm liên quan đến tín dụng bất hợp pháp. Những hệ lụy đối với người đi vay khi mắc bẫy tín dụng đen gặp phải có thể đến mức gây hậu quả nghiêm trọng đối với gia đình và xã hội.
Thứ hai, ban hành chính sách về các nguồn cung tín dụng hợp pháp, dễ tiếp cận, lãi suất phù hợp cho những đối tượng khó khăn, thu nhập thấp, những người mắc bệnh hiểm nghèo là đối tượng của những người cho vay tín dụng đen. Cụ thể như sử dụng các quỹ Công đoàn, quỹ hỗ trợ những người khó khăn, yếu thế, ốm đau bệnh tật; hoặc quỹ từ nguồn truy thu từ các hoạt động cho vay bất hợp pháp bị xử lý hình sự (tham khảo quỹ thu được theo Đạo luật POCA của Anh); hoặc các chương trình bán hàng hóa thiết yếu không vì mục tiêu lợi nhuận có thể giúp những người vay nợ có khả năng cầm cự vượt qua khó khăn, thậm chí là phá sản…
Thứ ba, giáo dục và lời khuyên sẽ có vai trò quan trọng trong việc tăng cường nhận thức về nguy hiểm và hậu quả của việc sử dụng người cho vay tiền bất hợp pháp. Do vậy, việc thành lập các trung tâm tư vấn cộng đồng, tư vấn nợ, giáo dục tài chính để hỗ trợ người vay tìm ra cách thức cơ cấu trả nợ phù hợp và ở mức độ cao hơn là hướng dẫn họ thực hiện một số hoạt động kinh doanh kiếm lời hợp pháp trong ngắn và dài hạn nhằm trang trải những chi phí trả nợ đến hạn là cần thiết.
Thứ tư, trong ngắn hạn cần sử dụng tốt vai trò trấn át tội phạm cho vay trái pháp luật của lực lượng an ninh, cảnh sát. Thực tế cho thấy đây là biện pháp rất hiệu quả để ngăn chặn phát sinh tội phạm cho vay trái pháp luật. Trong dài hạn, chiến lược hiệu quả nhất trong việc chống lại những người cho vay bất hợp pháp dường như là duy trì môi trường pháp lý đủ nghiêm ngặt nhằm quản lý chặt chẽ, có những hình phạt tương xứng nhằm giảm thiểu hoạt động trái pháp luật của người cho vay bất hợp pháp. Về việc này, cần thể chế hóa cụ thể trong Luật Hình sự về những hình phạt thích đáng đối với những người cho vay bất hợp pháp. Tăng cường truy quét tội phạm, đưa ra khởi tố xét xử với những trường hợp cho vay trái pháp luật nguy hiểm, có tính bạo lực để tăng cường tính răn đe trong việc thực thi pháp luật phòng chống hoạt động cho vay bất hợp pháp.
Thứ năm, thiết lập kênh thông tin giám sát tội phạm của cộng đồng dân cư, cung cấp số đường dây điện thoại nóng để hỗ trợ những trường hợp khẩn cấp bị người cho vay đàn áp, đe dọa. Việc giám sát tội phạm có thể được thực hiện chính từ những hộ gia đình, từ mạng lưới dân phố, từ những nạn nhân của các đối tượng cho vay… Việc vận động, tạo niềm tin, tạo những biện pháp đảm bảo an toàn cho những người tố giác tội phạm là cần thiết để họ có thểtin tưởng là sẽ được bảo vệ khi tố giác tội phạm.
Thứ sáu, sử dụng chính sách lãi suất vay hợp lý đối với những trường hợp có hoàn cảnh khó khăn; chính sách lãi suất này cũng có thể là giải pháp hạn chế những cơ hội cho vay của người cho vay bất hợp pháp, có thể làm cho hoạt động cho vay bất hợp pháp trở nên không cần thiết đối với nhu cầu của người vay (còn gọi là vô hiệu hóa người cho vay bất hợp pháp). Tăng cường hiệu quả, hiệu lực của các quỹ tín dụng nhân dân, các hình thức cho vay tín chấp hỗ trợ xóa đói giảm nghèo trong cộng đồng dân cư.
Thứ bảy, hỗ trợ tạo công ăn việc làm cho nhóm người khó khăn, yếu thế, chăm sóc sức khỏe cộng đồng để họ đủ khả năng lao động kiếm sống, khắc phục khó khăn mà không cần đến việc phải tiếp cận những khoản vay trái pháp luật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Anna Ellison, Sharon Collard and Rob Forster (2006), Illegal lending in the UK, United Kingdom.
2. Amanze, B. C. & Onukwugha, C. G (2018), Loan Fraud Detection System for Banking Industries in Nigeria Using Data Mining and Intelligent Agents: the Way Forward, Federal University of Technology Owerri.
3. Demyanyk, Y. (2006). Income Inequality: Time for Predatory Lending Laws.
4. Engel et al. (2001). A Tale of Three Markets: The Law and Economics of Predatory Lending.
5. Ferguson, A. B. (2000), Predatory Lending: Practices, Remedies and Lack of Adequate Protection for Ohio Consumers, Cleveland State University, United States.
6. Nguyễn Vân Hà, TS. Trần Thị Xuân Anh (2016). Hoạt động tài chính ngầm - tác động của nó tới an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam.
TS. Nguyễn Khương
Ngân hàng Nhà nước
email: [email protected], hotline: 086 508 6899