Định giá doanh nghiệp: Kinh nghiệm quốc tế và bài học đối với Việt Nam

04/05/2021, 16:24

TCDN - Trên giác độ quản lý nhà nước về tiến trình cải cách DNNN diễn ra nhanh hay chậm sẽ phụ thuộc một phần quan trọng vào các quy định ban hành có liên quan đến trình tự, cách thức và phương pháp định giá doanh nghiệp một cách thích hợp với cơ chế chính sách định giá có tính khả thi cao.

13-1

Công tác định giá doanh nghiệp là một vấn đề đặc biệt phức tạp. Trên giác độ quản lý nhà nước về tiến trình cải cách DNNN diễn ra nhanh hay chậm sẽ phụ thuộc một phần quan trọng vào các qui định ban hành có liên quan đến trình tự, cách thức và phương pháp định giá doanh nghiệp một cách thích hợp với cơ chế chính sách định giá có tính khả thi cao. Việc học tập và kế thừa kinh nghiệm của quốc tế là một trong những cách tiếp cận quan trọng để vận dụng vào việc ban hành chính sách nói riêng và đáp ứng những đòi hỏi của công tác định giá doanh nghiệp nói chung.

Một số quốc gia trên thế giới có nhiều nét tương đồng với Việt Nam như: Trung Quốc, Nga, và Hàn Quốc sẽ được nghiên cứu các vấn đề liên quan đến công tác định giá doanh nghiệp để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm từ việc định giá để chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước trên thế giới để đóng góp cho công cuộc đổi mới và phát triển DNNN của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

1. Trung Quốc

Từ đầu thập kỷ 90, các hướng chính trong đổi mới DNNN tập trung chủ yếu vào việc mở rộng quyền tự chủ của doanh nghiệp; Xây dựng thể chế đại diện quyền sở hữu của Nhà nước và hoàn thiện chế độ doanh nghiệp tự quản; Phát triển DNNN theo mô hình doanh nghiệp hiện đại.

Mô hình doanh nghiệp tự quản là sự kết hợp của phương thức kinh doanh của doanh nghiệp ngoài quốc doanh với quản lý nhà nước, chuyển từ nhà nước kinh doanh sang các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, trong đó cổ phần hóa thông qua công tác định giá doanh nghiệp là một khâu then chốt. Trong chế độ doanh nghiệp tự quản, các cổ đông trở thành người chủ thực sự trong doanh nghiệp, đây là mấu chốt của sự cải thiện quản lý DNNN ở Trung Quốc. Các DNNN đã được cổ phần hóa vận hành theo Luật Công ty với mô hình doanh nghiệp tự quản là cơ sở tạo nên sức cạnh tranh của doanh nghiệp.

Việc định giá doanh nghiệp được thực hiện bởi các tổ chức đánh giá có tính chất chuyên nghiệp, gọi chung là “cơ quan đánh giá tài sản”. “Cơ quan đánh giá tài sản” thực hiện thu phí đối với các dịch vụ đánh giá giá trị doanh nghiệp. Mức thu phí cụ thể sẽ do Quốc Vụ Viện ủy nhiệm cho các cơ quan tài chính, vật giá và chủ quản của doanh nghiệp xác định. Theo tinh thần của Nghị định số 91 do Quốc Vụ Viện công bố ngày 16/11/1991 thì “Cơ quan hành chính chủ quản về quản lý tài sản Nhà nước” và “Cơ quan chủ quản ngành hàng” của doanh nghiệp có trách nhiệm quản lý và kiểm tra kết quả định giá doanh nghiệp.

Nghị định đưa ra những quy định có tính nguyên tắc đối với việc đánh giá là phải đảm bảo “…tính trung thực, tính khoa học, tính khả thi và theo các tiêu chuẩn, trình tự và phương pháp được phép sử dụng:

+ Phương pháp theo giá trị thu lợi.

+ Phương pháp theo giá thị trường hiện tại.

+ Phương pháp theo giá trị thanh lý.

+ Phương pháp đánh giá khác của cơ quan hành chính chủ quản về quản lý tài sản nhà nước thuộc Quốc Vụ Viện quy định.

Từ năm 1994, Chính phủ Trung Quốc đã chấp nhận một phương thức cải cách DNNN linh hoạt hơn với đặc trưng là “nắm lớn, bỏ nhỏ”. Chiến lược này tập trung vào việc duy trì hơn 1.000 DNNN quy mô lớn, thông qua việc áp dụng thể chế, Trung Quốc đã và đang xây dựng phương hướng, nội dung cải cách và phát triển các DNNN theo mô hình doanh nghiệp hiện đại với những đặc trưng như: Doanh nghiệp có pháp nhân đầy đủ và là người bỏ vốn đầu tư, trở thành thực thể pháp nhân độc lập, được hưởng quyền lợi và nghĩa vụ dân sự, tự chủ kinh doanh theo pháp luật, tự chịu lỗ lãi, nộp thuế theo quy định, có trách nhiệm bảo toàn và tăng giá trị tài sản. Nhà nước được coi là người bỏ vốn, không được trực tiếp can thiệp vào hoat động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp và chỉ quản lý gián tiếp doanh nghiệp với tư cách là một cổ đông. Việc phát triển theo các định hướng này sẽ giúp DNNN khắc phục sự lạc hậu, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường và giữ được vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.

Cuối năm 1995, trong khu vực công nghiệp có những doanh nghiệp từ cấp huyện trở lên đã chính thức hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần. Năm 1996 con số này tăng tới 8.282 doanh nghiệp. Cổ phiếu của những công ty này không được giao dịch trên thị trường chứng khoán, vì vậy cho đến năm 1997 chỉ những công ty cấp tỉnh mới có chứng khoán niêm yết trên thị trường. Đến năm 2000 khoảng 1.400 DNNN lớn của Trung Quốc đã niêm yết trên thị trường chứng khoán với tổng giá trị thị trường chiếm khoảng 40% GDP. Tuy nhiên, một phần ba số cổ phiếu của các công ty niêm yết tại Trung Quốc sở hữu bởi các cá nhân và phần còn lại được sở hữu bởi nhà nước và các tổ chức tín dụng của nhà nước. Theo đó ít có sự thay đổi về cơ chế kiểm soát và điều hành của doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa, cơ chế cũ vẫn tồn tại trong hầu hết các công ty đã được CPH.

Từ đầu những năm 2004, Trung Quốc đang bước sang giai đoạn cao điểm cổ phần Nhà nước các công ty lớn, chính phủ ra quyết định tăng tốc độ chuyển nhượng trong vòng 2 năm phải thực hiện việc chuyển đổi kinh tế sang cơ chế thị trường quyết định này đã được ủy ban TW Đảng cộng sản Trung Quốc thông qua từ tháng 10/2003. Trung Quốc tiếp tục giảm 100.000 DNNN. Thực tế số lượng doanh nghiệp nhà nước năm 1996 là 114.000 doanh nghiệp đã giảm xuống còn 34.000 đến năm 2003. Thêm vào đó tỷ lệ cổ phiếu của nhà nước từ 41% trong năm 1998 đã giảm xuống 34% trong năm 2003.

Để khuyến khích các DNNN chuyển sang hình thức công ty cổ phần Trung Quốc áp dụng hàng loạt các chính sách ưu đãi như giảm thuế thu nhập, tăng quyền tự chủ cho các doanh nghiệp trong quản lý đầu tư, lao động sản xuất, tiêu thụ và hỗ trợ đặc biệt từ Nhà nước dưới hình thức tín dụng trực tiếp. Tuy nhiên trong công ty cổ phần vẫn còn tồn tại phân biệt đối xử với cổ phần nhà nước trong việc phân chia lợi nhuận.

2. Nga

Công tác định giá doanh nghiệp là một trong những khâu then chốt trong quá trình chuyển đổi sở hữu (tư nhân hoá) được thực hiện đầu tiên của quá trình chuyển đổi ở Nga. Có thể nói tư nhân hoá và cụ thể là công tác định giá doanh nghiệp ở Nga được thực hiện một cách ồ ạt, toàn diện và triệt để ngay từ giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi. Tuy nhiên, mục đích định giá doanh nghiệp chủ yếu mang tính chính trị, do đó, công tác định giá doanh nghiệp này đã nhanh chóng tạo ra tầng lớp hữu sản làm nền tảng kinh tế cho xã hội mới mà họ hướng tới. Trong quá trình này “tốc độ” chuyển đổi là ưu tiên hàng đầu trong quá trình định giá để tư nhân hoá. Đã có không ít so sánh giữa phương thức định giá chuyển đổi ở Châu âu và Châu á và cho rằng “chuyển đổi từ từ” là ưu việt và thành công hơn.

Có thể thấy rằng vào thời kỳ chuyển đổi ở Liên Xô trước đây đã đồng thời xảy ra 4 khủng hoảng và tương ứng là 4 “biến đổi”: Khủng hoảng cơ cấu công nghiệp; Khủng hoảng tài chính-ngân sách; Khủng hoảng bản thân nền kinh tế XHCN và Khủng hoảng nhà nước(khủng hoảng chính trị), nhà nước sụp đổ. Trong bối cảnh đó, ai cũng mong bất ổn định để “đục nước, béo cò”, thì quá trình định giá để tư nhân hoá và chuyển đổi sở hữu được nhanh chóng thực hiện và chính tầng lớp tư sản sẽ quan tâm đến bảo vệ tài sản của họ, và tạo ra “nền tảng” kinh tế cho chế độ mới dự định thiết lập. Trong bối cảnh đó, công tác định giá để phục vụ việc tư nhân hoá theo một kế hoạch thống nhất được chuẩn bị công phu cũng không thể có được. Do đó giá trị doanh nghiệp cũng không thể xác định chính xác được và thông thường là thấp hơn giá có thể thực hiện được.

Về đối tượng để tiến hành công tác định giá đã được phân biệt loại tài sản và hoạt động không định giá để tư nhân hoá; còn lại là tài sản và hoạt động thuộc đối tượng định giá để tư nhân hoá. Tài sản và hoạt động không được định giá thường gồm những thứ đặc biệt nguy hiểm đến cuộc sống như mỏ uran, khai thác, sản xuất và sử dụng uran hay các lĩnh vực có bí mật quốc gia.

Cổ phần hóa DNNN tại Nga bắt đầu thực hiện thí điểm vào năm 1990 và tiến hành rộng rãi vào những năm của thập niên 90. Nga là nước có tiềm năng to lớn về tài nguyên cũng như khoa học kỹ thuật, nhưng sản xuất hàng hóa kém phát triển, tình trạng bất ổn kéo dài, sức mua của công chúng còn thấp. Chính phủ phải lấy mục tiêu phân phối làm trọng điểm cho việc CPH DNNN, bằng cách cấp “giấy chứng nhận” cho toàn bộ 150 triệu công dân Nga để mua cổ phần trong doanh nghiệp Nhà nước khi CPH, mỗi người nhận một “giấy chứng nhận” với lệ phí 25 rúp. Mỗi giấy chứng nhận có mệnh giá 10.000 rúp và có thể tự do trao đổi. Cán bộ công nhân viên chức của các doanh nghiệp Nhà nước có thể mua nhiều cổ phần trong doanh nghiệp Nhà nước trước khi bán đấu giá theo các “giấy chứng nhận” này.

Đến năm 1995, đợt cổ phần hóa thứ nhì diễn ra, lần này các công ty nhà nước lớn nhất được tư nhân hóa. Đến giữa năm 1996, công cuộc cổ phần hóa coi như đã hoàn tất. Cùng một “kịch bản” của đợt cổ phần hóa thứ nhất, các công nhân viên đều được chia một số cổ phiếu, số cổ phiếu còn lại bán ra ngoài, ai còn tiền dành dụm thì giữ lại, ai túng tiền thì bán, thậm chí bán “lúa non”. Hầu hết số cổ phiếu và quyền làm chủ các cơ sở được cổ phần hóa đã rơi vào tay các đối tượng có chân trong bộ máy cầm quyền.

Sau cuộc bầu cử năm 1996, chương trình CPH tiếp tục, tập trung vào các xí nghiệp hàng đầu như YeES Rossii (điện lực), Rosgosstrakh (bảo hiểm)... ; Một lần nữa, công nhân các đơn vị này lại “bán như cho” các cổ phiếu của họ. Từ các đợt CPH này, chỉ 5 năm đã xuất hiện một lớp tỷ phú mới ở Nga, tài sản quốc gia từ chỗ là của chung nay trở thành của riêng của một lớp người nhờ đang “ngồi trước” mà “ăn trên”.

Một nhóm tác giả khác của Đại học Maryland nhận xét rằng: “Tại Nga việc bán trong nội bộ sẽ dẫn đến định giá có lợi cho nội bộ với nhau nhưng có hại cho xí nghiệp, nhất là khi nhà nước chẳng kiểm soát được gì. Thành ra càng cổ phần hóa ồ ạt, càng bán giá nội bộ ồ ạt, trừ phi có sẵn một cơ chế kiểm soát”.

Hơn 15 năm nhìn lại về tư nhân hoá trong đó có công tác định giá doanh nghiệp ở Nga có ý kiến cho rằng: Tốt nhất là định giá để tư nhân hoá 100%, nếu không thì nhà nước nắm giữ 100%, còn “hỗn hợp nhà nước tư nhân” là không thích hợp, ngay cả khi nhà nước có hơn 50% cổ phần. Trong các công ty cổ phần hỗn hợp, cổ phần nhà nước thường được giao cho một hoặc một số người trực tiếp quản lý; cơ chế giám sát thường buông lỏng hơn so với 100% vốn nhà nước. Do đó, nếu nhà nước có hơn 50% cổ phần, thì những người được giao quản lý cổ phần nhà nước nắm quyền chi phối; và các cổ đông tư nhân ở vị thế thiểu số chủ động tìm cách cấu kết với những người nói trên chuyển giá trị tài sản nhà nước đầu tư sang cho tất cả họ. Nếu nhà nước chỉ chiếm nhỏ hơn 50%, thì chính những người được giao quản lý cổ phần sẽ chủ động tìm cách cấu kết với các cổ đông khác chuyển giá trị công ty ra bên ngoài. Như vậy, yếu tố ngầm luôn có và chi phối trong hoạt động kinh doanh trong cả hai trường hợp nói trên. Thêm vào đó, các cơ quan hành chính và công chức có liên quan vẫn có thói quen và cơ sở để can thiệp hành chính trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tóm lại, doanh nghiệp với cơ cấu sở hữu hỗn hợp nhà nước- tư nhân thường có hoạt động “ngầm” và chưa hoàn hoàn tuân theo cơ chế thị trường.

Có thể nói tại Nga việc tư nhân hóa đã bán các doanh nghiệp nhà nước với mức rẻ mạt cho tư nhân, theo ước tính nước Nga chuyển đổi mới mươi năm mà số tỷ phú USD của Nga chiếm tới 40% tổng số của cải làm ra trong 1 năm của cả nước, còn của Mỹ đã qua mấy trăm năm phát triển chủ nghĩa tư bản thì tương ứng chỉ chiếm hơn 6%).

Chủ trương không khép kín cổ phần hóa cho các thành viên trong doanh nghiệp tại Nga có thể góp phần đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa. Chủ trương gắn cổ phần, cổ phiếu với thị trường chứng khoán, càng góp phần thúc đẩy cổ phần hóa. Song, để thực hiện tốt những chủ trương ấy, để những chủ trương ấy là lành mạnh, tích cực, thì phải có những biện pháp khác quản lý kèm theo. Về phương diện này, việc cổ phần hóa ở Nga đã cho thấy những kinh nghiệm đau xót, như: Trường hợp Nhà máy chế tạo grafit (than chì) cung cấp cho công nghiệp quốc phòng và nhiều công nghiệp khác đã phát hành cổ phiếu không ghi tên, nghĩa là có thể mua bán trên thị trường chứng khoán, nhà nước lại không giữ tỷ lệ cổ phần khống chế, một nhà tư bản Mỹ đã mua được 60% số cổ phiếu, trở nên người chủ sở hữu nhà máy, sau đó tuyên bố đóng cửa nhà máy. Thế là từ đó toàn bộ grafit cần thiết của Nga đều phải nhập từ Mỹ. Đây là một nguy cơ mất độc lập tự chủ, đi đến lệ thuộc.

Đến năm 2005, có thể nói tư nhân hoá ở Nga đã vào giai đoạn cuối. Hiện nay, Nga còn 9.500 xí nghiệp liên hợp nhà nước, 4.000 công ty nhà nước (trong đó, từ 250 đến 300 công ty có cổ phần chi phối của nhà nước, còn lại là dưới 50%). Điều đáng lưu ý là, các xí nghiệp liên hợp nhà nước vẫn hoạt động hoàn toàn theo cơ chế cũ dưới chế đô kinh tế kế hoạch hoá tập trung và công tác định giá để phục vụ quá trình chuyển đổi được thực hiện trước khi có luật, hay nói cách khác “cuộc chơi” mà chưa có luật thích hợp.

Dự kiến đến năm 2007, Chính phủ Nga sẽ hoàn thành tư nhân hoá; lúc đó, nhà nước chỉ còn giữ những tài sản đảm bảo cho hoạt động bình thường của nhà nước, còn lại sẽ tư nhân hoá hết. Cụ thể là: đến 2005 nhà nước sẽ bán hết cổ phần còn lại của mình trong các ngành khai thác khí, điện ảnh, chế tạo máy không chiến lược; đến 2006 trong ngành hàng không dân dụng, y tế, hoá và hoá dầu. Có ý kiến lo ngại rằng phương hướng chính sách là hợp lý, nhưng thời gian thực hiện quá gấp; do đó, nguy cơ tài sản nhà nước rơi vào tay chủ sở hữu không đáng tin cậy là rất lớn.

3. Hàn Quốc

Cải cách khu vực kinh tế quốc doanh gồm 2 đợt:

+ Đợt một (1968-1973): Tổng số 7 xí nghiệp quốc doanh được bàn giao cho khu vực tư nhân, cho các tổ chức tài chính hoặc tổ chức lại thành doanh nghiệp mới.

+ Đợt 2 (sau 1973): Tiến hành CPH một số xí nghiệp quốc doanh chủ yếu, trong đó bao gồm cả các ngân hàng thương mại, đồng thời nâng cao hiệu quả kinh doanh giảm chi phí ở những doanh nghiệp quốc doanh chưa CPH theo luật quản lý doanh nghiệp quốc doanh ban hành tháng 12/1983.

Cuối năm 1987 Chính phủ Hàn Quốc thông qua một kế hoạch bán một phần hoặc toàn bộ tài sản của xí nghiệp quốc doanh như: Các công ty điện, công ty viễn thông, công ty quặng sắt và thép pohang, công ty độc quyền thuốc lá, nhân sâm Gisheng…

Hàn Quốc thực hiện CPH DNNN thông qua chương trình “cổ phần hóa nhân dân”, nghĩa là chủ yếu ưu tiên phân phối 95% cổ phần cho người có thu nhập thấp (trong đó 20% bán cho công nhân viên xí nghiệp, số còn lại bán cho các thợ thuyền, tiểu thủ công nghiệp, nông dân và ngư dân ). Bán rẻ và thanh toán dần nhằm giúp người có thu nhập thấp có thể mua cổ phần. Nhờ chương trình này nên ngay năm 1987 hơn 49% cổ phần đã được bán cho công chúng.

Chính phủ Hàn Quốc thực hiện chính sách duy trì công tác kiểm soát hoạt động của các Công ty đã CPH nên chủ yếu bán một phần tài sản doanh nghiệp lớn và giữ lại một phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.

4. Một số bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam

Qua nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới có thể rút ra được 4 bài học sau đây:

- Thứ nhất: Trong tiến trình cải cách, những yếu kém của DNNN, kể cả những khả năng xảy ra rủi ro vỡ nợ, phá sản… cần phải được làm rõ, để các nhà đầu tư đánh giá đúng giá trị doanh nghiệp, tức là Nhà nước phải tạo ra những cơ sở tin cậy để họ biết đưa ra quyết định đầu tư một cách đúng đắn.

- Thứ hai: Với doanh nghiệp ảnh hưởng nhiều đến kinh tế xã hội chưa nên tiến hành định giá để CPH; nếu họ thua lỗ phá sản có thể đưa đến những gánh nặng về mặt xã hội thì cần có giảo pháp phục hồi SXKD. Trong đó, biện pháp hỗ trợ về mặt tài chính, tái cơ cấu nợ và tăng cường năng lực đội ngũ lãnh đạo là rất cần thiết.

- Thứ ba: Để định giá doanh nghiệp vừa nhanh, vừa sát thực phải cần đến các tổ chức định giá có tính chất chuyên nghiệp. Nhưng điều này không có nghĩa là sẽ loại bỏ được mối nguy cơ câu kết giữa doanh nghiệp làm thay đổi kết quả đánh giá, do vậy cần phải có 1 cơ chế giám sát hiệu quả.

- Thứ tư: Không nên quy định cứng nhắc một phương pháp, mà cần cho phép áp dụng nhiều phương pháp và nên quy định có tính nguyên tắc cho việc lựa chọn các phương pháp định giá để các chuyên gia có thể xử lý cho thích hợp với điều kiện cụ thể của mỗi loại hình doanh nghiệp.

Công tác định giá trong tiến trình cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam có những đặc điểm khác với tính quy luật chung ở các nước. Mặc dù mỗi quốc gia có những nét đặc thù về kinh tế và chính trị ảnh hưởng đến việc lựa chọn phương pháp và cơ chế định giá doanh nghiệp, song những đánh giá, kết luận rút ra ở trên, có thể được coi là những bài học kinh nghiệm bổ ích để vận dụng một cách thích hợp vào điều kiện cụ thể của Việt Nam hiện nay.

Trần Văn Dũng

Tạp chí in số tháng 4/2021
Bạn đang đọc bài viết Định giá doanh nghiệp: Kinh nghiệm quốc tế và bài học đối với Việt Nam tại chuyên mục Bài báo khoa học của Tạp chí Tài chính doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác:

email: [email protected], hotline: 086 508 6899

Tin liên quan

Giải pháp phát triển ngành Du lịch TP. Hồ Chí Minh
TP. Hồ Chí Minh có những lợi thế về vị trí địa lý, khí hậu, lại là một trung tâm văn hóa, giáo dục, thương mại, giao thông của cả nước nên đã trở thành một trong những thành phố đi đầu trong du lịch Việt Nam.